0 likes | 12 Vues
Viu1ec7c tu1ea1o cho hu1ecdc sinh niu1ec1m hu1ee9ng thu00fa trong hu1ecdc tu1eadp cho hu1ecdc sinh hou00e0n tou00e0n phu1ee5 thuu1ed9c vu00e0o nu0103ng lu1ef1c su01b0 phu1ea1m cu1ee7a giu00e1o viu00ean. Bu00ean cu1ea1nh viu1ec7c lu00ean lu1edbp thu00ec ngu01b0u1eddi giu00e1o viu00ean khu00f4ng ngu1eebng hu1ecdc hu1ecfi, tu00ecm tu00f2i, nghiu00ean cu1ee9u tu00e0i liu1ec7u cu00f3 liu00ean quan u0111u1ec3 lu00e0m sao cu00f3 thu1ec3 truyu1ec1n thu1ee5 cho hu1ecdc sinh mu1ed9t cu00e1ch nhu1eb9 nhu00e0ng, sinh u0111u1ed9ng, du1ec5 hiu1ec3u, phu00f9 hu1ee3p vu1edbi khu1ea3 nu0103ng tiu1ebfp thu cu1ee7a tu1eebng u0111u1ed1i tu01b0u1ee3ng hu1ecdc sinh. u0110u1eb7c biu1ec7t hu1ecdc sinh tiu1ebfp thu kiu1ebfn thu00fac, yu00eau thu00edch mu00f4n hu1ecdc, khu1eafc su00e2u kiu1ebfn thu1ee9c, u0111u01b0u1ee3c nhu01b0 thu1ebf cu00e1c em su1ebd hu1ee9ng thu00fa hu1ecdc tu1eadp.
E N D
MỤC LỤC I. THÔNG TIN CHUNG .................................................................................... 1 II. ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1 1. Bối cảnh về không gian, thời gian của vấn đề cần phải có giải pháp ........... 1 2. Phân tích thực trạng vấn đề cần giải quyết .................................................... 2 3. Giải pháp nhằm giải quyết vấn đề .................................................................. 4 4. Vấn đề giải quyết là vấn đề thiết thực gắn với nhiệm vụ được phân công .... 5 III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ............................................................................. 5 1. Mục tiêu của giải pháp ................................................................................... 5 2. Mô tả bản chất của giải pháp .......................................................................... 5 3. Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp ...................................................... 16 4. Những thông tin cần được bảo mật ................................................................ 17 5. Thực hiện áp dụng/áp dụng thử giải pháp ...................................................... 17 IV. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG/CHUYỂN GIAO ÁP DỤNG GIẢI PHÁP ......... 18 1. Lĩnh vực mà giải pháp có thể áp dụng ........................................................... 18 2. Phạm vi có thể áp dụng/chuyển giao áp dụng của giải pháp ......................... 18 V. HIỆU QUẢ THU ĐƯỢC HOẶC DỰ KIẾN CÓ THỂ THU ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG GIẢI PHÁP ............................................................................................ 18 1. Hiệu quả kinh tế ............................................................................................. 18 2. Hiệu quả xã hội .............................................................................................. 18 VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................... 21 1. Ý nghĩa của giải pháp trong thực tiễn công tác .............................................. 21 2. Khả năng ứng dụng, triển khai kết quả của giải pháp .................................... 21 3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng giải pháp ...... 21 4. Những kiến nghị, đề xuất để triển khai, ứng dụng giải pháp, chuyển giao áp dụng giải pháp có hiệu quả ................................................................................. 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO HÌNH ẢNH MINH CHỨNG https://kinhtetaichinh.net/
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HS : Học sinh GV : Giáo viên SGK : Sách Giáo Khoa TH : Tiểu học THCS : Trung học cơ sở NXB : Nhà xuất bản VD : Ví dụ tr : Trang https://kinhtetaichinh.net/
BÁO CÁO THỰC HIỆN GIẢI PHÁP I. THÔNG TIN CHUNG 1. Tên giải pháp:Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 5 trường TH-THCS Bình Hưng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học. 2. Tác giả:Đinh Vũ Hoàng Lê 3. Chủ đầu tư thực hiện:Đinh Vũ Hoàng Lê 4. Lĩnh vực áp dụng:Giáo dục 5. Thời gian bắt đầu áp dụng/áp dụng thử:1 năm (từ tháng 9/2019 đến 5/2020). 6. Địa điểm áp dụng/áp dụng thử:Lớp 5 trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưng. II. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Bối cảnh về không gian, thời gian của vấn đề cần phải có giải pháp: Trước thời đại công nghiệp hoá –hiện đại hoá của đất nước, Đảng ta xác định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, trẻ em là tương lai của đất nước đang cần được chăm sóc, nuôi dưỡng ngay từ thời thơ ấu. Điều đó thể hiện tầm quan trọng của việc đào tạo thế hệ trẻ đối với đất nước. Vì“Muốn xây dựng đất nước, trước hết phải phát triển giáo dục. Muốn trị nước phải trọng dụng người tài”.Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Do đó, trong những năm qua cải cách, đổi mới và đầu tư cho giáo dục liên tục được chú ý đến. Điều đó đặt ra cho quá trình giáo dục nói chung và quá trình dạy học nói riêng không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu của thời đại. Làm được điều đó đòi hỏi phải đổi mới tư duy, đổi mới quản lý giáo dục, trong đó nhiệm vụ đặt ra cho từng môn học và trách nhiệm củagiáo viên hết sức cần thiết. Chương trình lớp 5 là chương trình dạy học tương đối khó đối với học sinh, ngoài việc ôn tập hệ thống lượng kiến thức ở các lớp dưới còn có các kiến thức kĩ năng mới, khó và dễ nhầm lẫn. Đặc biệt là lớp cuối cấp học, học sinh không những phải tiếp thu, lĩnh hội được các kiến thức ấy mà cònlà hành trang chuẩn bị cho các em tiếp tục học trung học cơ sở. Nhưng để trẻ tiếp nhận có kết quả tốt thì chúng ta không thể chỉ dạy học và nhồi nhét các kiến thức ấy mà chúng ta làm sao vừa khắc sâu kiến thức vừa tạo cho tiết học nhẹ nhàng, trẻ có niềm vui, sự hứng thú trong học tập cho các em. Vì vậy, trước đó, các nhà tâm lí học đã nói rằng: “Hứng thú có một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Đó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động ấy. Một khi đã có hứng thú dù phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả cao”.Ở Tiểu học, trong hoạt động học tập muốn đạt được kết quả cao thì các em cần có hứng thú, cần có sự yêu thích đến trường để thu thập, 1 https://kinhtetaichinh.net/
lĩnh hội những thông tin, nhận được những tri thức, đạt được kết quả cao cho bản thân mình. Muốn đạt được mục tiêu đó thì không chỉ là giáo dục của nhà trường mà đòi hỏi cần có sự kết hợp của gia đình và xã hội. Giáo viên là nguời thầy, là người mẹ thứ hai của các em. Chính vì thế, chúng ta cần tạo cho các em cảm nhận rằng thầy cô quan trọng, gần gũi, gắn bó, yêu mến chúng như thế nào? Chúng ta là những người thầy, làm sao truyền cho các em hứng thú chứ không phải chỉ là dạy.Horace Mann đã nói:“Người thầy cố gắng dạy nhưng không truyền cảm hứng để học trò muốn học là nện búa vào tấm sắt lạnh”.Nếu chỉ dạy học và nhồi nhét các kiến thức thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao, thậm chí học sinh sợ khi đến trường. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày. Vì vậy, giáo viên giúp các em thấy rằng:“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”,phải gây được hứng thú học tập cho các em, lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Ngoài việc truyền đạt cho học sinh các kiến thức phổ thông,giáo viên cần chia sẻ kinh nghiệm sống, tâm tư con người với các em. Một số học sinh cảm thấy lĩnhhội kiến thức rất khó, mà đã “học khó” sinh ra học kém, mất căn bản, ngỗ nghịch, phá phách, chán học, sợ học,…không còn hứng thú đến trường. Để mong muốn góp phần giải quyết thực tế nói trên đồng thời hoà nhập chung với tiến độ phát triển chung của xã hội, tôi muốn góp một phần nhỏ công sức nghiên cứu của mình qua việc tìm hiểu hứng thú học tập của HS để những ai quan tâm đến vấn đề này có được một số vốn kiến thức nhất định phục vụ cho việc giảng dạy nói riêng và trong cuộc sống đối với thế hệ trẻ thơ nói chung. Xuất phát từ tình hình thực tế của học sinh và bằng kinh nghiệm của bản thân, tôi đã lựa chọn và nghiên cứu sáng kiến: Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 5 trường TH-THCS Bình Hưng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học. 2. Phân tích thực trạng vấn đề cần giải quyết: Là một trường thuộc địa bàn xã đảo Cam Bình. 100% học sinh là con em sinh sống bằng nghề nuôi trồng vàđánh bắt thủy hải sản, các em tiếp xúc rất ít với sách vở (chỉ học khi ởtrường), nên khi trẻ bước vào trường học gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, vì hoàn cảnh mưu sinh cuộc sống nên bố mẹ thường xuyên đi làm bè nên không ai nhắc nhở các em học tập. Các em đến trường, vừa học kiến thức mới trên sách vở đồng thời vừa ôn lại kiến thức đã học. Việc truyền thụ kiến thức mới cho trẻ hiểu đã là một việc làm khó, truyền cho các em ham học, say mê với môn học,hứng thú đến trường lại là điều trăn trở của một giáo viên. 2 https://kinhtetaichinh.net/
Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú trong học tập cho học sinh hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên. Bên cạnh việc lên lớp thì người giáo viên không ngừng học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu có liên quan để làm sao có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, sinh động, dễ hiểu, phù hợp với khả năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh. Đặc biệt học sinh tiếp thu kiến thúc, yêu thích môn học, khắc sâu kiến thức, được như thế các em sẽ hứng thú học tập. Vì thế là một người giáo viên Tiểu học, người “viết”lên những trang giấy trắng đầu tiên vào các em, “cấy”vào tâm hồn trẻ những điều tốt đẹp, chúng ta cần tạo cho các em sự yêu thích và phát triển một cách tốt nhất. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế, tạo hứng thú cho các em học tập chỉ có thể người giáo viên là then chốt chứ không ai khác được. Một khi đã có hứng thú để các em tiến tới mục tiêu chung của giáo dục ở Tiểu học: Nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. Nhưng để đạt được mục tiêu đó đâu phải một sớm một chiều mà là cả quá trình lâu dài, muốn làm việc đó có kết quả tốt thì trẻ cần có tình yêu và sự hứng thú thực sự nhưng đâu phải bắt học sinh yêu thích được mà phải truyền thụ và giúp các em hứng thú.Vì thế có nhà triết gia đã nói: “Dắt ngựa đến sông nhưng không thể bắt nó uống nước được”. Người giáo viên là một kĩ sư tâm hồn, quá trình dạy học là cả một nghệ thuật, muốn đạt được điều đó thì đòi hỏi người thầy không ngừng học hỏi, rèn luyện nâng cao chuyên môn, luôn có sự sáng tạo, cải tiến phương pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học. Với phương châm tất cả vì học sinh thân yêu, với niềm đam mê yêu nghề, mến trẻ, tận tâm với nghề, tận tụy với học sinh và giảng dạy nhiều đối tượng học sinh có nhiều hoàn cảnh khác nhau. Mặt khác, sau mỗi ngày dạy học, năm học, tôi thường tự đánh giá và rút kinh nghiệm hiệu quả đào tạo giảng dạy của chính mình để có biện pháp khắc phục sửa chữa kịp thời. Nhờ vậy, tôi biết được không khí thoải mái trong giờ học sẽ đem đến hiệu quả giảng dạy lớn như thế nào. ❖Thuận lợi: Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưngđược sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp uỷ, các ban ngành và sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nên hiện nay trường học khang trang, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. 3 https://kinhtetaichinh.net/
Bên cạnh đó Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình, quan tâm đến việc học của các em. Bản thân luôn được sự ủng hộ giúp đỡ của đồng nghiệp, nhất là anh chị em trong tổ chuyên môn. Học sinh ngoan ngoãn, lễ phép, có nề nếp trong học tập. Giáo viên được tham dự các lớp tập huấn, chuyên đề và nghiêncứu các tài liệu về đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học theo chương trình,giảng dạy trẻ có khó khănvề học, giáo dục trẻ khuyết tật học hòa nhập... Giáo viên được phép chủ động trong việc xây dựng kế hoạch dạy học và có sự theodõi kiểm tra chỉ đạo thường xuyên của tổ khối chuyên môn, lãnh đạo trường. ❖Khó khăn: Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưng là trường thuộc xã đảo đặc biệt khó khăn, tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương còn nhiều thiếu thốn. Trường chỉ có một điểm, gồm 9 lớp, mỗi khối lớp chỉ từ 18-40 học sinh. Cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn. Trình độ dân trí ở địa phương còn thấp, điều kiện kinh tế gia đình học sinh còn khó khăn. Nhiều gia đình học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em.Một số phụ huynh học sinh điều kiện kinh tế còn khó khăn, đi làm ăn xa hoặc gia đình không hạnh phúc,... Nên chưa quan tâm đến việc học của con em mình ở nhà cũng như ở trường. Việc giáo dục con cái của họ là “trăm sự nhờ thầy”. Từ đó ảnh hưởng lớn đến việc dạy học và giáo dục, làm cho việc dạy học và giáo dục trở nên khó khăn hơn, kém hiệu quả. Đối với học sinh lớp 5 trường tôi các kiến thức hiện nay không phải là đơn giản, dễ dàng tiếp thu, lĩnh hội nên một số em thấy “học khó”. Học sinh chán nản trong việc học, không tập trung chúýđến bài học, đi học không đều, một học sinh lớp tôi vìlớn tuổi nên không tự tin khi đến lớp, thậm chí có nguy cơ bỏ học giữa chừng, một số em chưa thực sự thích thú trong học tập. Vì vậy việc học tập của trẻ chưa đạt kết quả cao. Nhiều giáo viên chưa đầu tư sâu, giúp học sinh yêu thích các môn học, hứng thú đến lớp mà chủ yếu truyền tải nội dung, kiến thức cho các em. 3. Giải pháp nhằm giải quyết vấn đề: GV cố gắng truyền đạt kiến thức nhưng học sinh không chúý học tập, thụ động, không hiểu dẫn đến mất căn bản, kiến thức trong học tập. GV chưa chủ động, linh hoạt sáng tạo trong giảng dạy. Khi dạy chưa phân hoá đối tượng HS. GV chưa chú trọng đến việc tạo hứng thú cho học sinh, học sinh chưa tích cực lắng nghe, phối hợp cùng giáo viên trong việc lính hội kiến thức. HS còn hổng kiến thức, khả năng tư duy, tìm hiểu còn hạn chế. GV chưa thật sựkhơi gợi sự ham thích học tập, tìm hiểu của học sinh. 4 https://kinhtetaichinh.net/
Số liệu thống kê trước khi áp dụng sáng kiến: Hứng thú Ít hứng thú Không hứng thú Sĩ số Sốlượng % Sốlượng % Sốlượng % 27 10 37.1 08 29.6 09 33.3 4. Vấn đề giải quyết là vấn đề thiết thực gắn với nhiệm vụ được phân công: Chúng ta cố gắng đem đến các em những giờ học thú vị, thích thú, vui tươi nhưng hiệu quả cao. Giáo viên bây giờ là người hướng dẫn, vừa làm trọng tài, vừa làm cố vấn, vừa là người đánh thức khả năng tiềm tàng ở các em nhằm chuẩn bị tốt cho các em sẵn sàng hòa nhập và góp phần phát triển cộng đồng, phát triển đất nước. III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP 1. Mục tiêu của giải pháp: Xã hội có phồn vinh, đất nước có giàu mạnh trước hết cần những nhân tài, là mầm ươm tương lai của đất nước. Nhân tài không tự nhiên mà tồn tại và phát triển một cách hoàn thiện mà không qua trường lớp. Chính vì lẽ đó, đào tạo trẻ có kiến thức vững chắc, lâu dài thì cấp một chính là nền móng để nuôi dưỡng và phát triển nhân cách, tri thức, hoàn thiện cho một tương lai tươi sáng phía trước. Nhưng để các em cảm nhận thật trọn vẹn, đầy hứng thú, niềm vui mỗi khi bước chân vào trường học, lớp học không phải là điều đơn giản, mà đó là cả một nghệ thuật của người giáo viên. Khi trẻ đã hứng thú học tập thì đây chính là cơ hội cho các em lĩnh hội kiến thức, nuôi dưỡng, phát triển cảm xúc thẩm mỹ và phát huy trí tưởng tượng.“Học tập sẽ hiệu quả hơn khi nó thực sự vui thích” (Perter Kline). Yêu thích học tập các em sẽ không còn thấy “sợ học”,không còn thấy mệt mỏi khi các em hứng khởi tiếp nhận các kiến thức mà trước đây cho là khó, là “khô khan”, căng thẳng, nhàm chán. Hứng thú đến trường là miếng đất màu mỡ để trên đó tư duy hình tượng, tư duy logic học sinh nảy nở, phát triển. Trẻ sẽ tăng dần tính trách nhiệm với bản thân, với người khác. Để đạt được hiệu quả cao trong học tập trước hết cần rèn và truyền cho các em sự hứng thú. 2. Mô tả bản chất của giải pháp: Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 hứng thú trong học tập. 5 https://kinhtetaichinh.net/
2.1. Giải pháp 1: Tạo hứng thú học tập bằng cách xây dựng nội quy, nề nếp lớp học, trang thiết bị, đồ dùng dạy học. Phát triển quyền dân chủ cho học sinh mà tôi học tập được từ Hội Nghị Diên Hồng của nhà Trần. Muốn xây dựng một ngôi nhà bền vững, chắc chắn phải có cái nền kiên cố, vững chắc. Để xây dựng một lớp học thân thiện, học sinh hòa đồng cũng vậy, ta cũng xây dựng một nề nếp lớp đảm bảo đúng kỉ cương, tình thương, trách nhiệm. Ở những ngày đầu gặp lớp, ổn định nề nếp lớp bằng cách phát huy tính dân chủ trong lớp học để các em bình bầu ban cán sự lớp. Thảo luận nội quy lớp theo Nên- Khôngnên, thi đua các mặt: học tập, nề nếp, kỉ luật, vệ sinh. Đặc biệt là mặt học tập, vệ sinh, em nào hăng hái trong giờ học, hăng say phát biểu thì nhận một bông hoa vào tiết sinh hoạt lớpngày thứ sáu. Học sinh vừa thi đua mà ta vừa giáo dục lồng ghép. Về mặt trật tự, tôi cho các em xem một đoạn phim về Một ngày ở quân đội, kèm theo câu hỏi: “Các em có muốn làm chú lính tí hon của Bác Hồ không?”. Học sinh trả lời một cách rất hứng thú. Như vậy, bước đầu các em đã có nguồn cảm hứng trong học tập. Các em đã khoái chí và tôi bắt đầu để các em tự thảo luận nề nếp lớp cũng như ở nhà khi ý kiến của các em được tôn trọng. Đôi khi các em còn nêu được nhiều ý hay cho tôi áp dụng. Từ ngần ấy thước phim cũng góp mặt thêm niềm đam mê trong những ngày đầu vừa đến lớp. Qua đó, học sinh nhận thấy việc đến trường của mình có nhiều điều thú vị, cần khám phá thông qua những gì mình được học ở trường. Một tiết học muốn giáo viên truyền thụ kiến thức để học sinh có hứng thú học tập thì đòi hỏi lớp học phải sạch, thoáng mát; các đồ dùng của lớp phải để ngăn nắp, gọn gàng; học sinh tự giác rửa tay chân, quần áo thì sạch sẽ; nề nếp học tập phải tốt. Muốn thế giáo viên chủ nhiệm cần hướng dẫn các em trở thành thói quen như: rửa chân tay sạch sau khi lao động xong, quét lớp hàng ngày, lau lớp tuần hai lần, lớp học luôn phải sạch như chính ngôi nhà của các em. Cô còn nhắc nhở trò không bẻ cành, ăn quà vặt, bỏ rác đúng nơi quy định. Để xứng đáng là“Trường học thân thiện- Học sinh tích cực”. Trường sạch, lớp đẹp sẽ giúp các em hứng thú tiếp thu và vận dụng thực tế đó vào các môn học (như môn Tập làm văn tả ngôi trường, sẽ giúp bài văn sinh động, giàu cảm xúc,…) đạt hiệu quả cao hơn trước nhiều. Bên cạnh đó, lớp học phải có đủ ánh điện, độ chiếu sáng trong lớp học phải đủ. Đặc biệt là những lúc trời mưa, ánh sáng ngoài không chiếu đủ vào lớp. Ánh sáng tốt giúp cho các em nhìn rõ mọi những kiến thức mà giáo viên viết, những gì giáo viên giao nhiệm vụ. Chính điều này giúp học sinh hứng thú học tập. Đồng thời, bàn ghế phải phù hợp với lứa tuổi các em, cho mọi học sinh ngồi học phải theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào Tạo. 6 https://kinhtetaichinh.net/
Giáo viên chủ nhiệm hãy cùng các em trang trí lớp học sinh động, gần gũi, thân thương để các em hứng thú và học tập tốt hơn. Những đồ dùng cụ thể, đẹp mắt, nhiều màu sắc tạo cho trẻ niềm say mê khám phá bài học. Mặt khác, đó cũng là con đường giúp trẻ tiếp xúc một cách cụ thể, trực quan, sinh động từ những hình tượng nghệ thuật. Từ đây các em sẽ xích lại gần hơn với bài học, hứng thú khi đến trường, đến lớp và đạt kết quả cao hơn trong học tập. 2.2. Giải pháp 2: Tạo tâm thế bình yên, không khí thoải mái cho học sinh học tập. Trong mỗi chúng ta, ai cũng có niềm vui hay nỗi buồn thì học sinh cũng vậy. Mỗi ngày các em đến trường đều mang những tâm trạng khác nhau. Nếu bài hôm đó khó tiếp thu hay nét mặt các em thể hiện sự mệt mỏi. Lúc đó, tôi tổ chức một trò chơi tại chỗ để các em lấy lại hứng thú. Trò chơi, tôi chuẩn bị khá nhiều. Ví dụ: Trời ta–Học sinh đáp: ta đứng. Ngắn – dài – cao –thấp (miệng hô – tay làm theo). Cứ như thế, ta cải thiện trò chơi sang ngày khác để tăng phần hấp dẫn và hứng thú trong học tập. Ví dụ: Miệng hô: ngắn– dài – cao –thấp, nhưng động tác từ hai tay của tôi không làm theo vậy. Nghĩa là yêu cầu học sinh làm theo động tác tôi làm chứ không làm theo lời tôi nói. Em nào làm chậm sẽ lên giải bài tập. Như vậy, học sinh làm bài một cách rất tự nhiên, thoải mái. Nếu có em làm bài chưa hoàn thành tốtnên buồn, chán nản thì tôi động viên bằng những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ có trong chương trình để thổi vào tâm hồn em một luồng sinh khí nhằm làm xua tan chán nản, đánh thức niềm đam mê trong học tập... Chẳng hạn:“Thua keo này bày keo khác, thất bại là mẹ của thành công, chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo”,...Như vậy là vừa động viên, vừa giúp các em biết cách ứng xử bằng những kiến thức đã học vào trong thực tế để giúp câu chuyện trở nên hấp dẫn, tạo sự hưng phấn cho người nghe. Ví dụ: Môn Tập đọc: Kinh nghiệm cho thấy, để giúp các em thích học thì tôi luôn dùng lời động viên hết mình là chính. Trong đó, tôi luôn đề cao tính tự học, tự thi đua giữa các em với nhau thì các em rất thích. Đặc biệt khi luyện đọc đúng hoặcđọc hay, tôi hay sử dụng câu “Em thi đua đọc với bạn A, B, C,..xem ai đọc đúng và hay hơn nhé?”thì nét mặt các em vui và sẵn sàng chấp nhận một cách rất tự nhiên và tíchcực. Có em nhanh nhảu tự giác bắt cặp để thi đọc. Lúc đó, tôi thấy tiết học nhẹ nhàng nhưng học sinh thì làm việc rất nhiều, hiệu quả tiết dạy rất cao. Môn Toán: Tôi ôn dạng bài cơ bản –đa số là như vậy. Học sinh có nhiệm vụ giao bài tập cho bạn làm bài rồi kiểm tra nhau. Học sinh thường xuyên tự kiểm tra những kiến thức mà các em vừa học hoặc học đã lâu để giúp nhau tiến bộ. Thời gian kiểm tra do các em tự quy định với nhau. Và đặc biệt nên cho các em phải kiểm tra qua lại với nhau, nhằm tạo tính thân thiện, công bằng, không có em nào tự cảm thấy là mình quá tệ. Mà ngược lại, em nào cũng có sự hãnh 7 https://kinhtetaichinh.net/
diện riêng vì được giúp bạn. Làm thế, tôi thấy các em rất chịu học, vì em nào cũng muốn thể hiện mình. Còn đối với phân môn Tập làm văn về phần tả cảnh, tôi cho học sinh biết phối hợpvới môn Mĩ thuật mà các em đã vẽ tranh chủ đề về phong cảnh, để làm bài theo yêu cầu. Làm vậy vừa giúp các em bớt căng thẳng, ta còn chốt được là tả theo kiểu cắt nhỏ bức tranh, tả từng bộ phận trong tranh theo trình tự hợp lí. Dựa vào bức tranh, ta có thể chốt: Các em tả một bài văn cũng như vẽ một bức tranh gồm có mảng chính, mảng phụ. Mảng chính, khi các em cần tả kĩ, lồng tình cảm, biết bày tỏ cảm xúc đúng lúc, hợp lí, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, liên tưởng vào bài viết. Còn mảng phụ làm cho mảng chính đẹp hơn. Bên cạnh đó, khi dạy tôi thường cho HS nghỉ giữa tiết khoảng 5 phút, tôi thường chuẩn bị một câu chuyện nhỏ để kể cho các em nghe nhằm tạo động lực học tập ở các tiết tiếp theo. Cũng có thể cho các em khởi động bằng các trò chơi ở trường, như Trời ta–Ta đứng ( học sinh đứng); Đất ta–Ta ngồi ( học sinh ngồi), có thể làm nhiều lần. Ngày mai, chúng ta lại đổi hình thức khởi động khác. Chẳng hạn: học sinh hát một bài hát Nếu có vui xin vỗ đôi tay,.... 2.3. Giải pháp 3: Tạo hứng thú học tập bằng cáchlàm cho học sinh nhận thức được mục tiêu, lợi ích của bài học Hứng thú là một thuộc tính tâm lí mang tính đặc thù cá nhân. Hứng thú có tính lựa chọn. Đối tượng của hứng thú chỉ là những cái cần thiết, có giá trị, có sức hấp dẫn với cá nhân. Vậy vấn đề gì thu hút sự quan tâm, chú ý tìm hiểu của các em? Trả lời được câu hỏi này nghĩa là người GV đã sống cùng với đời sống tinh thần của các em, biến đổi những nhiệm vụ học tập khô khan phù hợp với những mong muốn, nhu cầu, sở thích, nguyện vọng (tất nhiên là phải tích cực, chính đáng) của HS. Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho HS ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Mục tiêu này có thể được trình bày một cách tường minh ngay trong tài liệu học tập (nhưcách trình bày của tài liệu hướng dẫn học của dự ánMô hình trường học mới Việt Nam) hoặc có thể trình bày thông qua các tình huống dạy học cụ thể. Ngay từ những ngày đầu HS đến trường, chúng ta cần làm cho các em nhận thức về lợi ích của việc học một cách tích cực và thiết thực:Em mà biết chữ thì thật là thú vị. Cô có thể viết cho em lời nhắn, em có thể đọc truyện…Em làm được một đồ chơi đẹp, vẽ được một bức tranh đẹp, làm thế nào để mẹ và cô biết là của em. Hãy học để viết tên lên đồ chơi và tranh nhé! Và đây là căn nhà đầy đồ chơi. Chìa khóa để mở có ghi một chữ, ai biết đọc sẽ mở được ngay. Đây là một vương quốc thật diệu kì chỉ dành cho những người biết đọc, biết viết… Với mỗi bài học cụ thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi ích của một nội dung nào đó. Chẳng hạn, sự cần thiết của dấu phẩy sẽ được làm 8 https://kinhtetaichinh.net/
rõ khi chỉ ra sự khác nhau về nghĩa của hai câu:Đêm hôm, qua cầu gãy và Đêm hôm qua, cầu gãy. Tính lợi ích của một nội dung dạy học cũng được thể hiện rõ khi chúng ta đặt ra sự đối lập giữa “có nó” và “không có nó”, ví dụ:Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta không có chữ viết? Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta không có những từ đồng nghĩa, không có câu ghép?... 2.4. Giải pháp 4: Tạo hứng thú học tập bằng cáchtác động vào nội dung dạy học Nội dung dạy học được chia ra rất nhiều cấp độ. Ví dụ trong môn Tiếng Việt, trước hết đó là các phân môn, các mạch kiến thức - kĩ năng, cụ thể hóa đến nhóm, kiểu, dạng bài tập và cho đến tận từng bài tập cụ thể. Từ bình diện nội dung dạy học, trên một bài tập, ta có thể tác động vào phần lệnh hoặc phần ngữ liệu. Việc trình bày đầy đủ các biện pháp tạo hứng thú trên bình diện nội dung dạy học cần cả một quyển sách. Sau đây tôi chỉlấy một vài dẫn chứng về việc lựa chọn ngữ liệu dạy học tiếng Việt. Không có con đường nào khác để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của học sinh với tiếng Việt và văn học ngoài cách giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và khả năng kì diệu của chính đối tượng học tập –tiếng Việt, văn chương. Đây cũng chính là ngữ liệu của dạy tiếng. Từng giờ, từng phút trong giờ tiếng Việt, người giáo viên đều hướng đến hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Đó có thể là một lời vào bài hấp dẫn cho giờ Tập đọc: Đây chỉ là một bài văn miên tả lại bức tranh nông thôn trong ngày mùa bội thu. Thế nhưng tác giảđã miêu tả rất thành công, tài tình làm cho bức tranh rất đẹp. Vì sao đẹp đến vậy? Chúng ta hãy cùng nhau đọc bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa để trả lời câu hỏi này. Hứng thú của học sinh cũng được khơi dậy từ việc chỉ ra vẻ đẹp của một từ, cái hay của một tình tiết truyện, chẳng hạn: Các sự vật trong bài được miêu tả bằng các màu vàng rất khác nhau: lúa –vàng xuộm; nắng – vàng hoe; xoan –vàng lịm; tàu lá chuối – vàng ối; bụi mía –vàng xọng; rơm, thóc – vàng giòn; lá mít –vàng ối; tàu đu đủ, lá sắn héo –vàng tươi; quả chuối – chín vàng; gà, chó –vàng mượt; mái nhà rơm –vàng mới; tất cả –một màu vàng trù phú, đầm ấm. Ngay cả những vấn đề lí thuyết ngữ pháp khô khan cũng đều có thể gây hứng thú cho HS nếu chúng ta biết lựa chọn ngữ liệu khai thác những đặc điểm thú vị của tiếng Việt, chẳng hạn đó là mối quan hệ giữa kiểu nghĩa và cấu tạo từ, giá trị gợi tả gợi cảm của lớp từ láy, quy luật chuyển nghĩa của từ nhiều nghĩa; khả năng tạo những “định danh nghệ thuật”, “đồng nghĩa kép” của hiện tượng đồng nghĩa, sự bất ngờ thú vị của hiện tượng đồng âm. Chẳng hạn, bài tập phân tích nghĩa của câu sẽ thú vị nếu GV sử dụng ngữ liệu đồng âm, đặc biệt là đồng âm cú pháp. Ví dụ:Nhiều bạn gái đang múa hát rất hay, Chúng tôi học qua loa. 9 https://kinhtetaichinh.net/
Ngữ liệu tiếng Việt trở nên hấp dẫn khi thể hiện tính năng sản sinh của ngôn ngữ. Ví dụ, tiếnghọc,từ tay... hoàn toàn trở thành ngữ liệu hấp dẫn trong các bài tập:Tìm các từ có chung tiếng “học”, Tìm thành ngữ, tục ngữ cùng chứa từ “tay”... Vì tiếnghọccó mặt trong rất nhiều từ ngữ:học bạ, học bổng, học đòi, học đường, học gạo, học giả, học hành, học hỏi, học kì, học lỏm, học phí, học sinh, học tập...từtayxuất hiện trong 21 thành ngữ, tục ngữ. Ngữ liệu hấp dẫn phản ánh được nét độc đáo của tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập mà phương thức ngữ pháp chủ yếu là trật tự từ. Với bài tập yêu cầu HS sắp xếp các từ cho trước để tạo câu, nên chọn những từ có khả năng sắp xếp thành nhiều câu khác nhau, ví dụ nếu chọn 5 từ:sao, nó, không, đến, bảocó khả năng tạo thành trên 20 câu khác nhau. Những kiến thức ngữ pháp nên được xem xét dưới góc độ của người sử dụng ngôn ngữ sẽ gây được hứng thú. Ví dụ, dạy bàiDanh từ riêngcó thể bắt đầu bằng cách nhận xét về cách đặt tên của người Việt. Khi dạyĐại từ nhân xưng, có thể cho học sinh nhận xét về văn hóa của người Việt trong cách xưng hô. Học sinh chưa hiểu hết được sự tế nhị trong cách xưng hô của người Việt và không phải em nào cũng biết xưng hô với bạn bè, cha mẹ, người thân một cách có văn hóa nên phát hiện này đối với các em cũng là điều thú vị… Không có cách gì tạo ra hứng thú với tiếng mẹ đẻ và văn chương ngoài con đường cho trẻ tiếp xúc trực tiếp, càng nhiều càng tốt với những tác phẩm văn chương, những mẫu hình sử dụng ngôn ngữ mẫu mực vì:Không làm thân với văn thơ thì không nghe thấy được tiếng lòng chân thật của nó(Lê Trí Viễn). 2.5. Giải pháp 5: Tạo hứng thú học tập bằng cáchphối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của HS còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học... 2.5.1. Tổ chức trò chơi học tập Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em. Cần đa dạng hoá hoạt động học tập với các hình thức dạy học sinh động như: như tạo ra các trò chơi, hấp dẫn, cuốn hút phù hợp với nội dung từng tiết học, bài học, môn học. Đây là hoạt động phù hợp với tâm lý thích hoạt động, 10 https://kinhtetaichinh.net/
thích thư giãn, đó là“Học mà chơi, chơi mà học”của các em lứa tuổi này. Chính vừa học vừa chơi làm cho đời sống các em thêm phong phú. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động; sẽ hứng thú tham gia vào hoạt động học, khi đó trẻ khắc sâu được các kiến thức khi chúng tập trung cao độ. Trẻ sẽ biểu lộ được cảm xúc, tình cảm khi chơi như vui mừng khi thắng lợi, buồn khi thua. Đặc biệt qua trò chơi tạo sự gắn bó, đoàn kết với bạn bè của các em. Qua trò chơi giúp các em tiếp thu kiến thức một cách tự giác, dễ dàng hơn, nhớ lâu và khắc sâu kiến thức“Nói với tôi, tôi sẽ quên. Chỉ cho tôi, tôi có thể nhớ. Hãy làm cho tôi xem và tôi sẽ hiểu”. (Chinese Proverb). Một số trò chơi điển hình khi dạy các môn học lớp 5 như: ❖Trò chơi “ Xì điện”. Ví dụ: Môn Toán học: Giáo viên chia lớp thành hai đội, phổ biến luật chơi ( trong quá trình chơi bạn nào một trong hai đội không nêu nhanh được kết quả sẽ mất quyền “xì điện”, giáo viên sẽ chỉ người khác), hướng dẫn cách chơi. Giáo viên đọc phép tính 78, 29 x 10 sau đó chỉ bất kì một em một trong hai đội, tức thì học sinh đó phải nêu nhanh được kết quả ( 782, 9). Kết quả ấy nếu đúng thì em đó có quyền đọc phép tính khác, học sinh ấy đọc: 265, 307 x 0, 01 (đọc và chỉ bất kì vào bạn của đội một), bạn đó đọc kết quả 2, 65307; rồi lại “xì điện” đến bạn tiếp theo của đội hai… Cứ như thế giáo viên và thư kí ghi lại kết quả. Hết thời gian quy định đội nào có nhiều bạn trả lời và kết quả đúng thì đội đó thắng cuộc. Giáo viên và cả lớp tuyên dương nhóm thắng và động viên nhóm chưa thắng. Trò chơi này áp dụng trong các tiết luyện tập, luyện tập chung. Giúp học sinh thực hiện tốt nhân một số thập phân với một số thập phân. Các em thích thú, vui vẻ, hào hứng khi chơi. Sau khi tiết học kết thúc học sinh nhớ lâu và thực hiện tốt hơn các kiến thức và áp dụng tính nhanh hơn trong cuộc sống. Không những trong giờ học mà trong giờ ra chơi các em còn đố nhau và trở thành trò chơi rất thú vị. ❖Trò chơi “ Tiếp sức”. Ví dụ: Môn Khoa học: Bài 5: Cần làm gì để cả mẹ và em bé đều khoẻ? Giáo viên treo bảng phụ, kẻ hai cột (Nên/ không nên). Chia lớp thành hai đội, phổ biến luật chơi, hướng dẫn. Giáo viên hô “Bắt đầu” cột (1) nên, tức thì các nhóm dùng bút dạ ghi vào của nhóm mình. Học sinh thứ nhất của đội mình ghi xong về ngay chỗ đứng thì học sinh tiếp theo mới tiếp sức lên ghi tên các việc cần làmđể cả mẹ và em bé đều khoẻ. Cứ như thế học sinh các nhóm tiến hành cho đến bạn cuối cùng, kết thúc trò chơi giáo viên và các nhóm cùng đánh giá rồi đếm (ví dụ: giáo viên đọc: Khám thai định kì –tức thì học sinh đồng 11 https://kinhtetaichinh.net/
thanh hô: 1; giáo viên đọc: Ăn uống đủ chất –học sinh đồng thanh hô: 2,…cứ như thế đến việc làmcuối cùng của độiđã ghi) xem nhóm nào có nhiều kết quả đúng hơn…thì đội đó sẽ thắng. Giáo viên cùng học sinh tuyên dương nhóm thắng cuộc,… Tiến hành tương tự như thế đối với cột không nên. Tác dụng: Khi chơi học sinh hứng thú học tập, tiết học trở nên hào hứng, sinh động; học sinh thì vui vẻ, khắc sâu và nhớ kiến thức được lâu hơn. Qua trò chơi các em biết được những việc nào nên làm và tốt, hợp lí cho cuộc sống. Đồng thời biết được và tránh những điều không nên cho bà mẹ và em bé trong thực tế thông qua trò chơi…và các trò chơi trên còn áp dụng nhiều môn học khác; đồng thời còn nhiều trò chơi khác áp dụng vào việc học tập tạo niềm vui, hứng thú cho học sinh, giúp các em tiếp thu tốt chương trình học một cách nhẹ nhàng, hiệu quả. Điều quan trọng nữa mà mỗi giáo viên khi lên lớp không được quên đó là tạo ra môi trường học tập công bằng, thân thiện, hứng thú cho các em. Trong tiết dạy hay trong quá trình tổ chức trò chơi hoặc trong giờ sinh hoạt lớp giáo viên nên động viên, khuyến khích mặt tích cực, chỉ ra những ưu điểm dù là nhỏ nhất của trẻ để các em cảm thấy mình cũng quan trọng và tự tin hơn trong mắt người khác. Khi trẻ được khen trẻ sẽ đón nhận lời khen ấy với cảm giác vui sướng trẻ sẽ cố gắng thật nhiều sao cho xứng với lời khen ấy và chờ được khen những lần sau. Tránh chê bai hay dùng đòn roi khiến trẻ sợ hãi, mất hết hứng thú hoặc tệ hơn nữa là trẻ chán học, không muốn đi học, thậm chí là bỏ học. Do đó, giáo viên“Hãy luôn đặt mình vào vị trí người khác, nếu điều đó làm tổn thương bạn thì nó cũng sẽ tổn thương người khác”. 2.5.2. Tổ chức hoạt động học theo nhóm Học theo nhóm là hình thức học tập có sự hợp tác của nhiều thành viên trong lớp nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập chung. Được tổ chức một cách khoa học, học theo nhóm sẽphát huy tính tích cực, sáng tạo, năng lực, sở trường, tinh thần và kĩ năng hợp tác của mỗi thành viên trong nhóm. Trong giờ học, biện pháp này tạo nên một môi trường giao tiếp tự nhiên, thuận lợi, đó là hoạt động giao tiếp nhằm trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của những người bạn. 2.5.3. Tổ chức dạy học ngoài trời Dạy học ngoài trời giúp HS tìm hiểu rất nhiều kiến thức, kĩ năng từ cuộc sống. Dạy học ngoài trời là một hình thức tổ chức dạy học có nhiều lợi thế để phát triển năng lực giao tiếp cho HS, một năng lực cần thiết cho tất cả mọi môn học. Dạy học ngoài trời tạo điều kiện để HS quan sát thiên nhiên, chơi các trò chơi… nhằm gây hứng thú, sự tích cực học tập cho các em. Tổ chức tiết học 12 https://kinhtetaichinh.net/
ngoài trời sẽ giúp HS tri giác trực tiếp đối tượng và ghi nhớ tốt, không phải tri giác gián tiếp qua các phương tiện dạy học. Các em có điều kiện gần gũi, hiểu biết về thiên nhiên, từ đó có ý thức bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống xung quanh. Hoạt động ngoài lớp còn là cơ hội để các em bộc lộ cá tính, năng khiếu, sở trường, đồng thời có tác dụng hình thành thói quen hợp tác, tương trợ, học hỏi lẫn nhau. Ngoài ra, trong môn Tiếng Việt, nhiều nội dung nói viết của phân môn TLV gắn liền với môi trường địa phương, nơi HS đang sinh sống nên việc dạy học ngoài không gian lớp học lại càng quan trọng. Có thể nói, bình diện phương pháp và hình thức tổ chức dạy học là bình diện mang tính linh hoạt mềm dẻo, đa dạng nhất trong quá trình dạy học, tác động vào nó có nhiều lợi thế nhất để tạo hứng thú học tập cho học sinh mà dăm ba trang viết không có tham vọng trình bày được đầy đủ. Sau đây, tôi minh họa bằng một vài biện pháp tạo hứng thú học Toán cho học sinh tiểu học trên bình diện này. Theo hoạch định của các chiến lược về mục tiêu, chương trình và SGK cùng với đặc thù riêng của môn Toán, các nội dung dạy học có tính chất toán học thuần túy được lựa chọn để dạy cho HS tiểu học khá ổn định; đảm bảo tính thiết thực; khả dụng; vừa sức; hiện đại và tích hợp. Theo quan niệm của GS. Nguyễn Bá Kim: Phương pháp dạy học được hiểu là cách thức hoạt động và giao lưu của thầy gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò nhằm đạt được mục đích dạy học[1]. Theo quan niệm này, phương pháp dạy học được xem là phương tiện tư tưởng nhằm đạt mục đích dạy học. Phương pháp dạy học được hiểu theo nghĩa rộng và có tính khái quát nhưng vẫn được xác định khá chặt chẽ bởi mục đích sư phạm với các nội dung dạy học cụ thể. Mọi thuyết minh về sử dụng phương pháp khéo léo tài tình đều trở nên vô nghĩa nếu người học không có kết quả (không hiểu biết thêm kiến thức và không đạt được kỹ năng tương ứng). Ngay cả khi đạt được kết quả thì các kết quả đó có thực chất và bền vững hay không phụ thuộc rất lớn (nếu không nói là hoàn toàn) vào mức độ hứng thú của người học. Vậy thực chất của việc tạo hứng thú học toán cho HS trên bình diện phương pháp và hình thức tổ chức dạy học là tạo ra được các tình huống để HS tiếp cận, vận dụng nội dung toán học thiết thực và tự nhiên. Sự hình thành mỗi kiến thức toán học như sự phát triển tất yếu của hệ thống các nhu cầu nhận thức của họ. Khi các nhu cầu nhận thức được thỏa mãn thì đó chính là bản chất bên trong của hứng thú chứ không phải là các khẩu hiệu hoặc biểu tượng bề ngoài. Phương pháp dạy học thể hiện vai trò là phương tiện tư tưởng ở chỗ tạo được điểm tựa để HS tự trải nghiệm; tự điều chỉnh các kiến thức và kỹ năng sẵn có để tiếp nhận tri thức mới vào hệ thống tri thức của cá nhân. Yêu cầu này chỉ được hiện thực hóa thông qua việc thiết kế công phu từng hoạt động thành phần cho mỗi nội dung học tậpcủa HS. Một số ví dụ dưới đây, xem như những minh họa bước đầu cho biện pháp kích thích từ 13 https://kinhtetaichinh.net/
bên trong của quá trình nhận thức nhằm tạo hứng thú học toán cho học sinh tiểu học. Tóm lại, việc thiết kế các hoạt động học tập giúp HS hứng thú học toán là sự thể hiện tổng hợp các ý tưởng về phương pháp dạy học. Người thiết kế không chỉ xác định đúng đắn mục tiêu học tập mà còn phải chú ý các yếu tố về tâm lý học, về giáo dục học và hiểu rõ vốn kiến thức thực tiễn của HS để phối hợp tốt với các thủ thuật, kỹ thuật thể hiện nội dung toán học, tạo ra các kích thích hợp lí để HS tự học. 2.6. Giải pháp 6: Tạo hứng thú học tập bằng việcxây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò Bên cạnh việc tác động vào nội dung và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trò. Bởi vì, học là hạnh phúc không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại, mà hạnh phúc còn nằm ngay trong chính sự học. Mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy–trò, giữa trò–trò với nhau cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn hòa bầu không khí thân ái, hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cả thầy và trò. Chính vì vậy, bên cạnh việc giáo dục có mục đích, tính kỉ luật ý thức trách nhiệm cho học sinh, chúng ta phải tổ chức cho học sinh có một cuộc sống ở trường thật hấp dẫn, thoải mái, gần gũi, tạo được nhiều niềm vui, phấn khởi sao cho học sinh mỗi ngày đến trường có nhiều niêm vui. Học sinh tiểu học rất thích khen và được khen. Nếu hôm ấy, các em học có tiến bộ, làm bài tập tốt thì tôi tặng cho các em một lời khen. Chẳng hạn: Em học có tiến bộ, cô rất vui hoặc em thật đáng khen! Em hoàn thành bài tốt lắm!...Như vậy, các em sẽ rất thích. Các em khi mắc phải lỗi lầm hoặc học hành chưa tiến bộ, tôi thường dùng những lời nói nhẹ nhàng nhằm khuyến khích các em là chính, và cần chú trọng về mặt thành công của trẻ. Đặc biệt là những học sinh học chậm, tôi quan tâm nhiều hơn bằng cách giúp đỡ, lắng nghe các em nói, động viên khen ngợi, khuyến khích các em, trân trọng những cố gắng, dù vẫn còn nhỏ, phát triển cái ưu. Đối với những em chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, tôi không chê trách các em mà luôn động viên, khuyến khích các em để theo kịp bài học với bạn. Hình thức đó, tạo cho các em có tâm thế bình yên trong học tập. Lời khen đúng nó thật diệu kì, nhưng nên nhớ không nên lạm dụng lời khen quá mức sẽ có tác dụng ngược lại. Chuyện là vậy, tôi thường khen ngợi em Chủ tịch Hội đồng tự quảnvà đưa em lên làm tấm gương cho các bạn noi theo. Thỉnh thoảng tôi có bỏ qua một số lỗi lầm nhỏ của em. Nhưng đến khoảng một tháng sau lại có chuyện xảy ra. Tôi 14 https://kinhtetaichinh.net/
nhận thức ý kiến phản ánh của lớp về tính kênh kiệu, thiếu tôn trọng các bạn, có ý muốn làm đàn anh, đàn chị. Chứng kiến được cảnh bắt nạn bạn trong giờ học hay giờ ra chơi còn dõng dạc tuyên bố: “Cô không bao giờ phạt mình đâu, vì mình làm lớp trưởng.”Tôi băn khoăn sẽ làm gì để khắc phục chuyện này. Mặc dù em quản lí lớp rất tốt nhưng cách nói năng và đối xử với các bạn cần xem lại. Làm sao để vừa giữ được nề nếp của lớp, vừa tiếp tục phát huy năng lực của em và giúp em sửa được tính xấu. Cuối cùng, tôi quyết định nói chuyện trực tiếp với em vào lúc giờ ra chơi. Là một học sinh thông minh, nhạy bén và hiểu vấn đề rất nhanh nên buổi nói chuyện giữa tôi và học sinh đã khiến em hiểu ra nhiều điều bổ ích có quanh em. Từ đó, những gì em làm tốt, tôi động viên, khích lệ và khen ngợi.Nhưng với những lỗi em mắc phải, tôi không thờ ơ bỏ qua mà nghiêm túc nhắc nhở, phân tích và chỉ tận tình cái sai, cái chưa được trong cách làm để em hiểu. Thế là tôi được một tập thể đoàn kết yêu thương và biết giúp đỡ nhau. Từ đó, Chủ tịch Hội đồng tự quảnlấy lại tình cảm của các bạn trong lớp, trở thành một con người chững chạc, biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, yêu cái đúng, ghét cái sai và sống đầy trách nhiệm với công việc được giao và giàu lòng tình yêu thương với bạn bè. Chính những cử chỉ tưởng chừng như nhỏ ấy của người giáo viên nhưng chứa đựng bao nhiêu là tình cảm, cảm xúc gửi gắm, động viên và là niềm tự hào, niềm tin truyền cho các em biết nhường nào. Các em thấy bản thân mình có ích, quan trọng với thầy cô giáo và vui sướng, tự tin trước các bạn trong lớp; còn các bạn khác lấy đó làm gương phấn đấu để cô giáo tuyên dương và tặng quà như bạn. Chính điều này là động lực, là niềm vui, là hạnh phúc tạo cơ hội và thúc đẩy một phần hứng thú để các em đến lớp, đến trường. Khi lên lớp với nhiều tình huống và các kiến thức, các môn học không giống nhau. Chính từ những điểm này mà đòi hỏi giáo viên phải điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với từng phân môn, tránh sự trùng lặp về nội dung giảng day. Đồng thời tạo cho các em sự hứng thú và yêu thích đến lớp, đến trường. Làm được điều đó là cả một nghệ thuật của nhà sư phạm. 2.7. Giải pháp 7: Kết hợp giữa nhàtrường và phụhuynh để tạo hứng thú học tập cho HS. Gia đình là tế bào của xã hội vì thế gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục trẻ. Một đứa trẻ phát triển tốt đòi hỏi phải sống trong một gia đình có cách giáo dục tốt. Mà muốn trẻ giáo dục tốt thì cần phải bắt đầu từ tuổi ấu thơ, đây chính là nền tảng ban đầu của đứa trẻ. Đặc biệt trẻ học được tấm lòng vị tha, nhân ái, những điều hay lẽ phải trong cuộc sống thì bắt đầu bằng việc giáo dục và hành động của người lớn trước hết là gia đình. Muốn tạo cho các em nguồn cảm hứng, sự hứng thú khi đến trường thì cha mẹ các em cần phải tạo cho các em một thói quen tốt ngay từ nhỏ và gần gũi với 15 https://kinhtetaichinh.net/
các em. Giáo viên cần trao đổi ngay với phụ huynh khi trẻ có hiện tượng vắng học, có biểu hiện chán học, không để hiện tượng vắng học, chán học kéo dài. Trao đổi với phụ huynh rằng: Một khi trẻ không thích đi học hay có một số biểu hiện chán học phụ huynh cần bình tĩnh hỏi han, cùng trẻ tìm ra nguyên nhân do đâu các em không thích đi học. Khi học sinh đã nói ra nguyên nhân mình không thích đi học như: Thấy cô đơn, không theo kịp kiến thức, bị thầy cô chê trách,… cha mẹ không nên trách mắng trẻ, nên tạo cho trẻ môi trường thoải mái để có hứng thú học tập. Cha mẹ học sinh cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để tìm ra giải pháp tối ưu nhất cho trẻ như thiết lập các mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, tạo cho các em lại niềm tin về bản thân, nên khuyến khích trẻ và nói những điều tốt về trường học. Đồng thời đã qua thực tế và thấy: Do điều kiện ở đây còn khó khăn, một số gia đình quan tâm đã có tương đối đầy đủ đồ dùnghọc tậpnhưng vẫn còn một số gia đình chưa quan tâm và còn khó khăn về kinh tế nên chưa có cho các em đầy đủ đồ dùng học tập. Vì vậy, ngoài những đồ dùng bắt buộcnhư sách giáo khoa, vở thì tôi tìm hiểu và cho học sinh thêm các dụng cụ học tập như bút, giấy vẽ,… hoặc mượn được một số đồ dùng ở thư viện trường để các em trong lớp có đồ dùng học tập tốt hơn. Giáo viên cần trao đổi với phụ huynh, cần phối kết hợp với họ để ở trường giáo dục là giáo viên, còn ở nhà phần giáo dục của gia đình rất quan trọng. Đứa trẻ tiếp xúc với trường học đầu tiên ấy là gia đình. Do đó, gia đình cần giành thời gian quan tâm, động viên, gần gũi trẻ, không nên vì hoàn cảnh khó khăn mà bắt con em mình ở nhà phụ giúp gia đình. Gia đình cần cộng tác với thầy cô giáo. Cha mẹ các em nên báo với giáo viên những lúc học sinh và gia đình cảm thấy khó khăn để giáo viên tìm hướng giải quyết, nếu vấn đề phức tạp giáo viên khó giải quyết sẽ nhờ sự giúp đỡ và kết hợp của Ban giám hiệu hay của cấp trên.Ở nhà phụ huynh cần nhắc nhở, kiểm tra, đôn đốc việc học của các em.Cần chuẩn bị bài, học bài, làm bài tập và kiểm tra đồ dùng học tập trước khi đến lớp. Là học sinh cuối cấp Tiểu học vì thế phụ huynh nên hướng dẫn cho trẻ lập thời gian biểu riêng hàng ngày, giờ nào học, giờ nào chơi, lúc nào phụ giúp gia đình,… hãy tạo điều kiện để trẻ vừa học vừa chơi, thấy việc học cũng vui, cũng bổ ích, lí thú chứ không nhàm chán, không phải là nhiệm vụ quá nặng nề đối với các em. 3. Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp: - Điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị: 16 https://kinhtetaichinh.net/
gần gũi, phù hợp với mỗi bài học. Nhìn vào đó sẽ giúp cho các em có hứng thú và học tốt hơn. Cần bảo quản, giữ gìn đồ dùng ngay sau khi sử dụng xong. + Trong giảng dạy cần có những đồ dùng, hình ảnh trực quan sinh động, + Trang bị máy chiếu, đồ dùng dạy họcđể phát huy các môn học tốt hơn. + Phòng học cần thoáng mát, sạch sẽ và trang trí khang trang. - Điều kiện về nhân lực: nhẹ nhàng, gần gũi, quan tâm đến HS. Trong giảng dạy có nhiều HS nhận thức chậm. GV phải kiên trì, không nên khắt khe, mà nên tạo điều kiện cho các em được tham gia vào các hoạt động học tập, được chia sẻ để tự tin hơn. GV nên tôn trọng ý kiến của HS. + GV cần có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp, nên có phong thái thức, yêu thích môn học. Thường xuyên luyện tập thực hành, GV phải động viên, khuyến khích, khích lệ học sinh trong học tập. + Sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học để giúp HS nắm vững kiến 4. Những thông tin cần được bảo mật : Không 5. Thực hiện áp dụng/áp dụng thử giải pháp - Thời gianáp dụng: Từ tháng 09/ 2019 đến tháng 05/ 2020. - Địa điểm áp dụng: Tại lớp 5trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưng. - Những người tham gia tổ chức áp dụng giải pháp lần đầu (nếu có, là người tham gia áp dụng giải pháp mmới cùng với tác giả nhưng không phải là các đồng tác giả) Trình độ chuyên môn Nội công việc hỗ trợ dung Ngày tháng năm sinh Nơi tác công Chức danh Stt Họ và tên 1 16/03/1993 Trường GV Đinh Hoàng Lê Vũ Đại học Sư phạm Khảo mức độ hứng thú học tập của học sinh. sát TH&THCS Bình Hưng Áp dụng các giải pháp cụ thể để mang lại kết quả cao. 17 https://kinhtetaichinh.net/
IV. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG/CHUYỂN GIAO ÁP DỤNG GIẢI PHÁP 1. Lĩnh vực mà giải pháp có thể áp dụng Áp dụng trong tất cả các môn học và các hoạt động giáo dục nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Khơi gợi ở học sinh khảnăng tự học, tìm tòi, sáng tạo, ham thích đến trường, yêu mến thầy cô. 2. Phạm vi có thể áp dụng/chuyển giao áp dụng của giải pháp: Giải pháp này được áp dụng ở lớp 5 tại trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưng, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa và đã đạt được hiệu quả đáng kể. Sáng kiến này không những áp dụng được cho HS khối lớp 5trong trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưng mà còn có thể áp dụng cho các khối lớp khác cũng như ở các đơn vị trường bạn trong toàn thành phố, toàn tỉnh. Nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu, áp dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của lớp, của trường thì sẽ đem lại kết quả như mong muốn. V. HIỆU QUẢ THU ĐƯỢC HOẶC DỰ KIẾN CÓ THỂ THU ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG GIẢI PHÁP 1. Hiệu quả kinh tế: Không 2. Hiệu quả xã hội Sau một thời gian áp dụng sáng kiến này vào thực tế công tác chủ nhiệm lớp, giảng dạy học sinh và qua những kinh nghiệm của bản thân. Tôi áp dụng một số giải pháp và khắc phục những hạn chế trên đã đạt được những kết quả nhất định trong việc dạy–học. Chất lượng học sinh được nâng cao. Học sinh hứng thú, rất sôi nổi và mạnh dạn, tự tin hơn, năng lực chủ động, phát huy tính tích cực của mình trong giờ học. Đặc biệt là các em yêu thích đến trường. Hứng thú học giúp trẻ tiếp thu, lĩnh hội kiến thức dễ dàng và mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Căn cứ vào những kết quả thu được tôi đã thực hiện các giải pháp ở trên cùng với những nỗ lực và cố gắng của bản thân, vận dụng một số kinh nghiệm vào việc giảng dạy thời gian qua. Tôi nhận thấy việc áp dụng một số biện pháp ở trên vào việc dạy học và hướng dẫn học sinh hứng thú đến trường thực sự đạt hiệu quả. Qua một thời gian lớp có chuyển biến rõ rệt về chất lượng học tập. Trong giờ học có sự kết hợp giữa giáo viên và học sinh nhịp nhàng, tình trạng thụ động tiếp thu bài không còn nữa, không khí học tập trở nên sôi nổi, tiết học nhẹ nhàng, học sinh thực sự có hứng thú khi đến lớp, đến trường; đi học không phải là sự ép buộc mà đi học rất lí thú và cần thiết, là niềm vui mỗi ngày của các em. Đồng thời yêu thích đến trường vì theo các em đến trường tiếp thu những 18 https://kinhtetaichinh.net/
điều thú vị, thầy cô giáo rất gần gũi với các em, có nhiều bạn bè chơi rất vui,… Các em đã có hứng thú đến trường, so với trước đây thì bây giờ các em đã chuẩn bị đồ dùng học tập và chuẩn bị bài chu đáo, đã tích cực tham gia vào các hoạt động học tập cũng như các hoạt động tập thể khác.Trẻ thật sự muốn đến trường, đối với các em đến trường có những điều đầy thú vị và bổ ích. Trẻ hứng thú và yêu thích đến trường làm cho trẻ mạnh dạn hơn trong học tập, dẫn đến đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp,… Khả năng giao tiếp giữa học sinh với giáo viên, giữa các em với nhau được gần gũi hơn. Học sinh bộc lộ lên những ý muốn, những sở thích riêng của mình với bạn bè với thầy cô. Việc vận dụng những kinh nghiệm đó đã nâng cao hiệu quả của giờ lên lớp, phát huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được niềm cảm xúc, sự hứng thú say mê thực sự đối vớihọc sinh. Về chuyên cần được theo dõi theo tháng: Sĩ số: 27 Chuyên cần đi học Tháng 8 và 9 24 em đi học đều (3 em có xin phép nghỉ học một buổi) Tháng 10 24 em đi học đều (2em có xin phép nghỉ học một buổi, 1 em nghỉ một buổi học không có phép) Tháng 11 25 em đi học đều (2 em có phép một buổi học) Tháng 12 27 em đi học đều Dựa vào số liệu thống kê chuyên cần đi học của các tháng (từ tháng 8 đến tháng 12) , nhận thấy các em đi học có đều hơn. Học sinh nghỉ học không phải vì chán học mà do bị bệnh. Có em nhà không có điện thoại nên không thể liên lạc với tôi được và cũng không thể ra trường xin phép, vì lí do nhà không có ai giữ em nhỏ. Về chấtlượng giữa học kì 1 (Sĩ số: 27 HS) Môn Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % Toán 6 22.2 20 74.1 1 3.7 Tiếng Việt 7 25.9 20 74.1 0 0 19 https://kinhtetaichinh.net/
Chất lượng cuốihọc kì 2 (Sĩ số: 27 HS) Môn Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % Toán 11 40.7 16 59.3 0 0 Tiếng Việt 13 48.1 14 51.9 0 0 Số liệu thống kê cho thấy môn Toán và môn Tiếng Việt có tiến bộ. Chất lượng học tập môn Toán và Tiếng Việt có nhiều chuyển biến rõ rệt. Một số chuyển biến khác Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Sĩ số : 27 SL % SL % SL % SL % 10 37.0 12 44.4 13 48.1 17 63.0 Mạnh dạn- tự tin Nêu ý kiến 6 22.2 9 33.3 11 40.7 15 55.6 13 48.1 17 63.0 17 63.0 18 66.7 Trật tự Hứng thú trong học tập các môn học của học sinh (Sau khi áp dụng sáng kiến): Hứng thú Ít hứng thú Không hứng thú Sĩ số Sốlượng % Sốlượng % Sốlượng % 27 14 51.9 12 44.4 1 3.7 20 https://kinhtetaichinh.net/
BIỂU ĐỒ SO SÁNH SỰ HỨNG THÚ CỦA HS (Số liệu %) 60 50 40 30 Trước Sau 20 10 0 Hứng thú Ít Không hứng thú hứng thú Số liệu Một số chuyển biến kháctrong học tập là dựa trên tình hình học tập từng ngày của học sinh mà tôi cập nhật được thông qua quá trình tích cực học tập của các em. Với số liệu thống kê như vậy, tôi nhận thấy hài lòng về khả năng học tập của các em. VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Ý nghĩa của giải pháp trong thực tiễn công tác Một số biện pháp trên đã được một số giáo viên thực hiện và đều mang lại hiệu quả. Điều quan trọng là các biện pháp có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ tích cực cho nhau trong quá trình dạy học các môn học. Chính vì vậy để mang lại hiệu quả thực sự cao, khi thực hiện cần áp dụng đầy đủ, triệt để các biện pháp trên. 2. Khả năng ứng dụng, triển khai kết quả của giải pháp Sáng kiến của tôi không phải là mới, những biện pháp tôi đã làm cũng rất bình thường nhưng kết quả đạt được lại rất khả quan. Rõ ràng qua cách làm này, nhận thấy học sinh lớp 5 trường TH và THCS Bình Hưng hứng thú trong học tập, việc học ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan, ham thích môn học, tình cảm thầy- trò, bạn bèngày càng gắn bó và thân thiện. 3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng giải pháp. Trải qua những năm thực hiện kế hoạch “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, tôi thấy phần nào mình đã có sự thành công nhất định với các biện pháp đã đề ra, học sinh thích đi học, tự tin, có mạnh dạn, chuyên cần hơn, làm bài tốt hơn và lễ phép trật tự hơn. Các em biết sống có trách nhiệm, biết 21 https://kinhtetaichinh.net/
giúp đỡ bạn bè, kính trọng thầy cô và qua đây tôi muốn chia sẻ những hiệu quả đạt được, tuy chưa nhiều so với khu vực trung tâm. Nhưng nếu so với khu vực vùng xa, các em đa phần thuộc gia đình khó khăn, ban ngày đến trường, tối đến phụ giúp bố mẹ, thành quả như thế là đáng ghi nhận. Bản thân tôi không ngừng học hỏi để tiếp tục tìm ra những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để kế hoạch mà mình đề ra luôn đạt hiệu quả tốt nhất. Nghề dạy học là nghề sáng tạo trong những nghề sáng tạo. Ngoài sáng tạo, tôi cũng phải rèn luyện tính kiên nhẫn, luôn tìm ra những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tại sao ta không biến những điều không thể thành có thể bằng những phương pháp dạy học tích cực? Tất cả những điều này nếu được đáp ứng, nó sẽ khơi dậy lòng ham học ở các em, tạo cho các em một sự hứng thú thi đua trong học tập. Chúng ta luôn tạo một môi trường thuận lợi và tốt nhất cho các em để các em thấy rằng “ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Càng gần gũi các em thì mình sẽ thấy được ở thế giới quanh các em có nhiều điều thú vị mà mình phải nên làm. Trên đây là một số suy nghĩ và những biện pháp, giải pháp mà tôi đã áp dụng thành công trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 5. Tôi tin rằng, nếu mỗi giáo viên luôn nhiệt tình rèn luyện và tận tâm dạy bảo thì chắc chắn các em sẽ hứng thú đến trường. Đồng thời trẻ còn tự tin, mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Tất cả những điều đó là hành trang vững bước cho các em sau này sẽ trở thành những con người xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước. 4. Những kiến nghị, đề xuất để triển khai, ứng dụng giải pháp, chuyển giao áp dụng giải pháp có hiệu quả. Trong quá trình công tác, không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, chịu khó nghiên cứu, tìm tòi học hỏi, đúc rút kinh nghiệm. Điều quan trọng là có lòng yêu nghề, mến trẻ, tình đồng nghiệp, đồng chí. Nếu sáng kiến được áp dụng rộng hơn thì mong rằng đồng nghiệp, giáo viên những người công tác dạy học tiểu học cần vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với lớp mình. Ngoài những biện pháp trong sáng kiến này, có thể còn có những biện pháp khác, bản thân người viết chưa nhận thấy và mong rằng các đồng nghiệp đọc sáng kiến này đóng góp ý kiến. Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, phát triển và vận dụng trong quá trình dạy học ở lớp 5 tại trường TH và THCS Bình Hưng. Mặc dù đã có nhiềuchuyển biến về kết quả học tập, sự chuyên cần, tinh thần thái độ học tập của học sinh khi vận dụng đề tài, nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong sự góp ý 22 https://kinhtetaichinh.net/
của quý thầy cô để đề tài đạt được hiệu quả cao hơn, để bản thân người viết có thêm điều kiện có thể tiếp tục mở rộng, nghiên cứu về đề tài trong thời gian tới. Cam Bình, ngày 04 tháng 05 năm 2020. Tác giả sáng kiến Đinh Vũ Hoàng Lê 23 https://kinhtetaichinh.net/
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học (Nhà xuất bản giáo dục) 2.Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn- Văn học dân gian Việt Nam - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 1996… 3.Nguyễn Minh Thuyết, Hoàng Hoà Bình, Trần Mạnh Hưởng...Sách giáo viên lớp 5 Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam 4.Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Thị Hạnh…Tiếng Việt 5/Tập 1, tập 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo. 5.Bùi Phương Nga, Lương Việt Thái…Khoa học 5/Tập 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo 6.Hoạt động vui chơi giữa tiết học ở trường tiểu học- Nhà xuất bản Giáo dục –Tác giả: Hoàng Long- Trần Đồng Lâm- Đỗ Thuật. 7.Giáo trình Tâm lí học đại cương- Tác giả: PGS.TS Nguyễn Quang Uẩn ( chủ biên) của Trung tâm đào tạo từ xa Huế 2003. 8.Giáo trình Tâm lí học Tiểu học –Tác giả: Bùi Văn Huệ của Nhà sản xuất Đà Nẵng- 2004. 9.Giới thiệu Cuộc đời và Sự nghiệp các nhà Toán học- Nhà xuất bản Trẻ- Tác giả: GS. Nguyễn Cang-Đại học Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh và PGS Nguyễn Đăng Phất- Tiến sĩ chuyên ngành Toán học Đại học Sư phạm Hà Nội. https://kinhtetaichinh.net/