0 likes | 18 Vues
Bu1eadc tiu1ec3u hu1ecdc lu00e0 bu1eadc hu1ecdc ru1ea5t quan tru1ecdng trong viu1ec7c u0111u1eb7t nu1ec1n mu00f3ng cho viu1ec7c hu00ecnh thu00e0nh nhu00e2n cu00e1ch cu1ee7a hu1ecdc sinh lu00e0 bu01b0u1edbc ngou1eb7t trong u0111u1eddi su1ed1ng cu1ee7a tru1ebb .u0110u00f3 lu00e0 cu00e1nh cu1eeda mu1edf u0111u1ea7u cho cu1ea3 quu00e1 tru00ecnh hu1ecdc tu1eadp, lu0129nh hu1ed9i tri thu1ee9c cu1ee7a cu00e1c em u1edf bu1eadc hu1ecdc nu00e0y cu00e1c em u0111u01b0u1ee3c hu1ecdc nhiu1ec1u mu00f4n hu1ecdc trong u0111u00f3 mu00f4n Lu1ecbch su1eed vu00e0 u0110u1ecba lu00ed cung cu1ea5p cho hu1ecdc sinh nhu1eefng hiu1ec3u biu1ebft cu01a1 bu1ea3n vu00e0 ban u0111u1ea7u vu1ec1 cu00e1c su1ef1 vu1eadt, su1ef1 kiu1ec7n, hiu1ec7n tu01b0u1ee3ng vu00e0 mu1ed1i quan hu1ec7 giu1eefa chu00fang trong tu1ef1 nhiu00ean, con ngu01b0u1eddi vu00e0 xu00e3 hu1ed9i, vu1ec1 cu00e1ch vu1eadn du1ee5ng nhu1eefng kiu1ebfn thu1ee9c u0111u00f3 trong u0111u1eddi su1ed1ng vu00e0 xu00e3 hu1ed9i.
E N D
LÝ THUYẾTCHUYÊN ĐỂ 2: “Phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học phân môn Lịch sử lớp 4,5.” I, ĐẶT VẤN ĐỀ: Bậc tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách của học sinh là bước ngoặt trong đời sống của trẻ .Đó là cánh cửa mở đầu cho cả quá trình học tập, lĩnh hội tri thức của các em .ở bậc học này các em được học nhiều môn học trong đó môn Lịch sử và Địa lí cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản và ban đầu về các sự vật, sự kiện, hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng trong tự nhiên, con người và xã hội, về cách vận dụng những kiến thức đó trong đời sống và xã hội. Trong môn Lịch sử và Địa lí phần Lịch sử có một vai trò rất quan trọng, nó giúp học sinh tìm hiểu về cội nguồn, về quá khứ tức là về lịch sử của dân tộc mình. Phần Lịch sử sẽ cung cấp cho các em những hiểu biết sơ đẳng nhất về quá trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc, biết được những sự kiện lịch sử quan trọng, những nhân vật lịch sử tiêu biểu nhất. Giúp các em hiểu đúng đắn và có những biểu tượng sinh động về lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Trong thực tế việc giảng dạy môn Lịch sử và Địa lí trong nhà trường tiểu học còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân thứ nhất là do giáo viên chưa hiểu hết về khả năng nhận thức của học sinh mình: Môn Lịch sử và Địa lí là một môn học về môi trường tự nhiên- xã hội gần gũi bao quanh học sinh, do đó học sinh có nhiều vốn sống, vốn hiểu biết để tham gia vào bài học, chúng phải được chủ động nhận thức. Trái lại, một số giáo viên vẫn cho rằng chính họ vẫn là nguồn duy nhất truyền thụ kiến thức cho học sinh mà không thấy rằng trong thế giới hiện đại học sinh có thể thu nhận kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy họ khó hoà nhập vào xu thế đổi mới phương pháp dạy học. Nguyên nhân thứ 2 là do môn Lịch sử và Địa lí được xây dựng theo tư tưởng tích hợp bao gồm các kiến thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội với lượng kiến thức sâu rộng làm cho một số giáo viên còn lúng túng trong giảng dạy. Phần Lịch sử cũng nằm trong tình trạng đó. https://dekiemtra.edu.vn/
Mặt khác do vốn hiểu biết về những sự kiện, nhận vật lịch sử của bản thân mỗi giáo viên chưa giàu, chưa phong phú, chưa đáp ứng cho được yêu cầu mở rộng bài học một cách sâu sắc nên còn lúng túng hoặc bỏ qua khi miêu tả, liên hệ gắn kết các sự kiện của các giai đoạn lịch sử. Một số giáo viên còn chậm đổi mới phương pháp, cách dạy còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo khoa và sách giáo viên, ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh, chưa thể hiện được vai trò người tổ chức, thiết kế dạy, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, chưa hướng dẫn cho học sinh cách tự học, tự nghiên cứu qua các nguồn tư liệu lịch sử. Chính vì vậy phần lớn học sinh chưa có hứng thú học Lịch sử. Tôi thấy cần phải đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả môn học, góp phần giúp các em hình thành kiến thức Lịch sử một cách dễ dàng, từ đó khơi dậy trong các em tình yêu quê hương đất nước và tự hào với truyền thống dân tộc. Đó cũng là những băn khoăn, trăn trở của chúng tôi mỗi lần đứng trên bục giảng dạy phần Lịch sử này và chúng tôi đã quyết định chọn chuyên đề: “Phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học phân môn Lịch sử lớp 4,5” II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ A. CHƯƠNG TRÌNH SGK VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY LỊCH SỬ Ở TIỂU HỌC: 1. Nội dung chương trình SGK: a- Nội dung phân môn lịch sử trong trường Tiểu học mang những nội dung cơ bản sau: - Ở lớp 4, học sinh được trở về với cội nguồn của dân tộc từ buổi đầu dựng nước (khoảng 700 năm trước CN đến năm 179): Nước Văn Lang, nước Âu Lạc. - Hơn 1 ngàn năm đấu tranh giành lại độc lập (từ 179 TCN đến 938 SCN) Dưới ách đô hộ của phong kiến Phương Bắc. Khởi nghĩa Hai bà Trưng. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng. - Buổi đầu độc lập (từ năm 938 đến 1009) nhà Đinh, Lê (tiền Lê). - Nước Đại Việt (từ 1009 đến 1858): Nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê (hậu Lê). - Nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn. Lịch sử lớp 4 kết thúc vào giai đoạn thực dân Pháp xâm lược nước ta 1858. Ở lớp 5: https://dekiemtra.edu.vn/
- Hơn 80 năm chống thực dân Pháp (1858 đến 1945) các cuộc khởi nghĩa và hoạt động yêu nước chống thực dân Pháp. Thành lập Đảng CSVN 1930. Cách mạng tháng 8/1945 và tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. - 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Các chiến dịch quân sự lớn. Chiến thắng Điện Biên Phủ. hiệp định Giơ- Ne- Vơ chấm dứt chiến tranh Đông Dương. - Kháng chiến chống Mỹ và xây dựng đất nước (1954-1975). Giai đoạn này nổi bật lên là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân năm 1968 đã gây cho Mỹ- nguỵ thiệt hại nặng nề và hoang mang lo sợ . Tiếp theo là chiến thắng 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở Hà Nội, thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta dẫn tới Đế quốc Mỹ phải ký hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh và tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam. Giai đoạn này kết thúc vào lúc đất nước ta hoàn toàn độc lập Bắc- Nam sum họp một nhà thể hiện ở chiến thắng 30/7/1975 rực rỡ. Giai đoạn 1975 đến nay: Thời kỳ xây dựng CNXH trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, xây dựng lại đất nước, từng bước vươn lên sánh vai với các nước trên thế giới. 2. Các phương pháp thường dùng trong dạy lịch sử. Phương pháp trực quan. Phương pháp hỏi đáp. Phương pháp kể chuyện. Phương pháp truyền đạt Phương pháp thảo luận Phương pháp điều tra Phương pháp đóng vai Phương pháp dạy học nêu vấn đề Phương pháp trò chơi B/ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ 1.Quan niệm về đổi mới phương pháp Để đáp ứng được với yêu cầu của môn học đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học. Sự đổi mới các phương pháp dạy học không phủ nhận việc sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống. Nhưng phải thay đổi cách sử dụng những phương pháp này sao cho phát huy được chức năng khêu gợi của nó, biến quá trình nhận thức thụ động của học sinh trước đây thành quá trình nhận thức chủ động . https://dekiemtra.edu.vn/
Dạy học lấy học sinh làm nhân vật trung tâm, người học là chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra kiến thức bằng hoạt động học của mình. Học sinh không phải thừa nhận những điều giáo viên nói trong sách vở mà các em tự tìm hiểu và nhận thức vấn đề một cách tự nhiên. Giáo viên ngày nay chỉ đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn khích lệ đối với việc học tập của học sinh. Để làm được việc đó ngoài những phương pháp truyền thống sử dụng theo tinh thần mới cần bổ sung vào hệ thống các phương pháp có tác dụng phát huy tính chủ động nhận thức của học sinh 2. Các phương pháp trên được định hướng đổi mới như sau: 2.1 - Phương pháp quan sát( trực quan). Phương pháp quan sát là cách tổ chức cho học sinh sử dụng thị giác và phối hợp với các giác quan khác dể tiếp nhận thông tin. tuy nhiên hoạt động quan sát được coi là phương pháp dạy học nếu giáo viên biết tổ chức hoạt động quan sát cho học sinh theo yêu cầu sau: Biết mục đích quan sát Được quan sát trực tiếp Quan sát có kế hoạch Học sinh tự rút ra kết luận. Những phương tiện trực quan được sử dụng nhiều để dạy học phân môn lịch sử: tranh ảnh, bản đồ lịch sử, phim đèn chiếu, phim chiếu bóng, phim video, di tích lịch sử, nhà bảo tàng lịch sử và một số nhà bảo tàng khác. Sử dụng hiệu quả các phương tiện trực quan, đồ dùng dạy học kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử. Ví dụ: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” GV có thể đưa hình ảnh con tàu La-tu-sơ Tờ-rê-vin và hình ảnh bến nhà Rồng cho HS quan sát và hỏi: Những hình ảnh trên gợi cho em những hình ảnh gì?. Học sinh trả lời để GV hướng HS vào bài mới. Hoặc khi dạy bài “Thu - đông 1947 , Việt Bắc –mồ chôn giặc Pháp” GV đưa lược đồ chiến dịch Việt Bắc để HS quan sát. (Tô đen mũi tấn công của địch, tô đỏ mũi tấn công của quân ta, khoanh tròn đỏ hoặc vẽ cờ đỏ tại các địa danh có những trận thắng tiêu biểu của quân ta). Để HS thấy rõ được diễn biến của chiến dịch và phân tích được 1 sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng. Từ đó các em sẽ cảm phục sự mưu trí dũng cảm của quân ta. Dạy bài “Tiến vào Dinh Độc Lập” nếu GV sưu tầm được những thước phim lịch sử trong ngày 30/4/1975 rồi chiếu trên Video hoặc máy https://dekiemtra.edu.vn/
chiếu khi dạy học sử dụng công nghệ thông tin thì HS sẽ rất hào hứng quan sát và các em được sống lại với những giây phút hào hùng của dân tộc, chắc chắn sẽ để lại ấn tượng mạnh trong mỗi học sinh. Khi dạy bài : “Vượt qua tình thế hiểm nghèo” nếu dạy bằng giáo án điện tử chúng ta cho hs xem đoạn phim các nước đế quốc ào ạt tiến vào nước ta chắc chắn các em sẽ thấy ngay được tình thế “ nghìn cân treo sợi tóc” của nước ta lúc bấy giờ. 2. Phương pháp hỏi đáp: Trước đây phương pháp này được sử dụng là giáo viên hỏi- học sinh trả lời hoặc giáo viên trả lời thay. Hệ thống câu hỏi rời rạc, không có câu hỏi mở rộng. Dạy học đổi mới phương pháp này là tổ chức đối thoại giữa giáo viên và học sinh nhằm khêu gợi dẫn dắt học sinh tự rút ra kết luận. Phương pháp này được sử dụng phối hợp với hầu hết các phương pháp dạy học khác. Nó chẳng những có tác dụng đến việc thu nhận kiến thức của học sinh mà còn có tác dụng đánh giá kết quả thu nhận kiến thức của học sinh nhờ đó giáo viên điều chỉnh dược nội dung phương pháp dạy học của mình. Để tăng hiệu quả của việc sử dụng phương pháp hỏi đáp giáo viên cần tổ chức đối thoại theo nhiều chiều: Giáo viên –học sinh ( giáo viên nêu câu hỏi- học sinh trả lời ). Học sinh –học sinh (học sinh sửa chữa, bổ sung cho nhau) Học sinh – giáo viên (học sinh nêu thắc mắc với giáo viên) Để nâng cao chất lượng của các câu hỏi và từ đó nâng cao trình độ tư duy của học sinh trong khi soạn từng bài giáo viên phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi, các câu hỏi phải được sắp xếp theo một trình tự lô gíc mỗi câu hỏi là một bước để dần dần giải quyết được những vấn đề do bài học đăt ra. Ví dụ) Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ( 1075 – 1078 )” tôi đặt vấn đề để HS thảo luận: Việc Lý Thường Kiệt cho quân đánh sang đất Tống có hai ý kiến khác nhau : + ý 1 : để xâm lược nước Tống . + ý 2 : để phá âm mưu xâm lược nước ta của nhà Tống . Căn cứ vào hiểu biết của em và sách giáo khoa theo em ý kiến nào đúng ? (Chiều GV-HS) https://dekiemtra.edu.vn/
HS thảo luận đưa ra ý kiến của mình –HS khác nhận xét bổ sung (Chiều HS-HS) Có HS lại nêu thắc mắc với tôi là: Thưa cô! Có phải Lý Thường Kiệt đem quân đánh nước Tống trước nên vua tôi nhà Tống mới tiến hành cuộc xâm lược nước ta? (Chiều HS-GV). Những thắc mắc của HS đã được tôi giải thích các em sẽ hiểu bài sâu sắc hơn thấy được tài phán đoán , đầu óc chiến lược sáng suốt của Lý Thường Kiệt , cá em sẽ khâm phục và kính trọng vị anh hùng dân tộc hơn . 3. Phương pháp kể chuyện: Kể chuyện là cách dùng lời nói trình bày một cách sinh động có hình ảnh và truyển cảm đến người nghe về một nhân vật lịch sử, một sự kiện lịch sử để hình thành một biểu tượng sinh động về những sự kiện, hiện tượng và nhân vật lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ lịch sử dụng nước và giữ nước của dân tộc ta. Phương pháp kể chuyện được thực hiện phần lớn các bài học của phân môn lịch sử. Giáo viên và học sinh đều tham gia kể chuyện sau khi đã đối thoại để hiểu các tình tiết chủ yếu. Bài học lịch sử và hình thành được biểu tượng lịch sử. Chú ý khi kể chuyện giáo viên không nên kéo quá dài 15 –20 phút và cần tái hiện quá khứ đúng như nó đã tồn tại, tức là tôn trọng tính chân thực của lịch sử. Nhiều bài học giáo viên cần trình bày bối cảnh lịch sử xuất hiện nhân vật lịch sử hoặc sự kiện lịch sử. Học sinh khi kể chuyện không được học thuộc lòng câu chuyện trong sách giáo khoa mà phải kể bằng chính ngôn ngữ của mình. Ví dụ: Khi dạy bài “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (năm 938 )”, GV kể chuyện dẫn dắt học sinh tới câu chuyện bằng cách hỏi bài cũ : Kể những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống lại ách đô hộ của chính quyền phương Bắc . HS trả lời ... Giáo viên kể tiếp : Khi nước Âu Lạc bị người Hán xâm lược đã có nhiều cuộc nổi dậy của nhân ta chống lại nhà Hán .Một trong những cuộc khởi nghĩa đó là của Dương Đình Nghệ đã thắng lợi vào năm 931và ông đã gả con gái cho một viên tướng có tài là Ngô Quyền .Nhưng vì nội bộ lục đục Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ nên Ngô Quyền đã đem quân ra đánh báo thù và Kiều Công Tiễn đã cho người sang cầu cứu nhà Hán, quân Nam Hán lại sang xâm lược nước ta lần nữa .... https://dekiemtra.edu.vn/
Hoặc khi dạy bài “Chùa thời Lý”. Giáo viên có thể kể chuyện về sự tích chùa Một Cột kết hợp với hình ảnh để học sinh nhớ và hiểu về ý nghĩa ngôi chùa này : Chùa Một Cột có tên chữ là chùa Diên Hựu ( phúc lành lâu dài ) .Chùa ở quận Ba Đình , xây dựng vào năm 1049 dưới thời vua Lý Thái Tông . chuyện kể rằng một hôm nhà vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen ,dắt ngài cùng lên ,kịp lúc tỉnh dậy ,vời bầy tôi đến nói chuyện mộng ấy và cho là điều không lành . Bấy giờ các nhà sư khuyên vua làm chùa ,ngài nghe theo , sai lập một cái cột đá , trên đó làm một tòa sen thờ Phật Quan Âm,rồi họp các sư để cầu cho nhà vua sống lâu nên gọi là chùa Diên Hựu . Chùa có kiến trúc rất độc đáo ,giống như một bông sen mọc lên giữa hồ.Chùa dựng trên một cột đá cao giữa hồ Linh Chiểu ,giống như cái ngó sen .Trong lòng hồ trồng nhiều sen. Trên cột đá làm tòa sen đỡ ngôi chùa nhỏ, làm toàn bằng gỗ.Trong chùa thờ Phật Quan Âm . Chùa Một Cột ngày nay vần là di tích cổ nhất giữa thủ đô Hà Nội . Khi dạy bài lịch sử địa phương Bài 2 “ Truyền thống đấu tranh của nhân dân địa phương”giáo viên sưu tầm những câu chuyện kể về những trận chiến đấu của nhân dân xã nhà với những nhân vật lịch sử rất gần gũi với các em chăc chắn sẽ thu hút các em vào bài học hơn .Ví dụ cô kể câu chuyên sau: - Ngày 7/10/1950 địch đã điều quân từ thị xã Hải Dương xuống đóng tại bốt An Nhân và thôn La Tỉnh do tên quan ba tây trắng Quýt Sắc chỉ huy. Ngày 8/10/1950, khoảng 7 giờ sáng bọn địch ra khỏi làng La Tỉnh cùng với nhiều phu khuân vác. Song một thủ đoạn rất thâm độc của chúng là bắt phu đi trước để hạn chế ta nổ súng vì chúng biết ta không bắn vào phu. Khi đến địa phận xã Văn Tố, vì đường 191 quân ta đắp ụ, đào hào, chúng phải hành quân bộ một cách dò dẫm đề phóng ta đánh bất ngờ. Lúc này trận địa vẫn im lìm loáng thoáng vài người (do ta cải trang) mải miết lao động và thả câu. Đội hình đi đầu của địch đã vào chợ Măng, bọn còn lại vào làng La Giang. Theo kế hoạch, khi có lệnh tấn công, quân ta xung phong, tiếng hò reo vang khắp làng, tiến đánh giáp với quân thù. Tên quan ba Quýt Sắc cho quân đánh trả quyết liệt, chúng xả đạn như mưa và cho đánh mạnh vào xóm Trại La Giang, song chúng cũng https://dekiemtra.edu.vn/
gặp phải sự phản kháng quyết liệt của tổ du kích do đồng chí đội trưởng Nguyễn Văn Đang chỉ huy. Với phản xạ của một tên giết người chuyên nghiệp, Quýt Sắc đã lia một băng đạn về phía đồng chí Nguyễn Văn Đang để mở đường máu, đồng chí Nguyễn Văn Đang hy sinh. Đồng chí Đàm Minh Điện từ trong làng La Giang băng ra hố lớn: Đứng lại (Hô lơm anh), Quýt Sắc đang thúc chạy không dừng lại, lập tức đồng chí bắn một loạt tiểu liên, Quýt Sắc bị bắt sống. 4. Phương pháp truyền đạt: Là cách tổ chức hướng dẫn học sinh trong học tập của giáo viên dưới các hình thức: hướng dẫn cách học, cung cấp thông tin, giải thích... để học sinh tự phát hiện ra kiến thức. Ngày nay trong quá trình dạy học giáo viên không độc thoại như trước kia (chủ yếu là thuyết trình) mà sử dụng phương pháp truyền đạt xen kẽ trong các hoạt động học tập của học sinh. Một số tình huống cần sử dụng phương pháp truyền đạt như đặt vấn đề vào bài mới hoặc truyền đạt kiến thức học sinh phải công nhận hoặc tổng kết kiến thức thảo luận. Ví dụ: Dạy bài “Chiến thắng Chi Lăng” GV phải trình bày bối cảnh dẫn đến trận Chi Lăng : Cuối năm 1946 , quân Minh xâm lược nước ta ,nhà Hồ chưa đủ thời gian đoàn kết được toàn dân nên cuộc kháng chiến thất bại (1407) .Dưới ách đô hộ của nhà Minh nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã nổ ra , tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng. Năm 1418 , từ vùng núi Lam Sơn cuộc khởi nghĩa ngày càng lan rộng ra cả nước . Năm 1426 quân Minh bị quân khởi nghĩa bao vây ở Đông Quan ( Thăng Long ) , Vương Thông - tướng chỉ huy quân Minh –hoảng sợ , một mặt xin hòa ,một mặt khác bí mật sai người về nước xin quân cứu viện . Liễu Thăng chỉ huy 10 vạn quân kéo vào nước ta theo đường Lạng Sơn . Biết quân giặc phải đi qua Ải Chi Lăng , nghĩa quân đã chọn đây là trận quyết định để tiêu diệt địch . Khi dạy bài “ Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai ( 1075 –1077 ) “ để tổng kết về nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khán chiến GV kết luận : Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai đã kết thúc thắng lợi vẻ vang , nền độc lập của nước ta được giữ vững .Có được thắng lợi ấy là vì nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước , tinh thần dũng cảm , ý chí quyết tâm đánh giặc ,bên cạnh đó lại có sự lãnh đạo tài giỏi của Lý Thường Kiệt . Bài thơ Nam quốc sơn hà mãi mãi vang vọng non sông : https://dekiemtra.edu.vn/
Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời . Bài thơ chính là tiếng của núi sông nước Việt vang lên cổ vũ tinh thần đấu tranh của người Việt trước kẻ thù và nhấn chìm quân cướp nước để mãi mãi giữ vẹn toàn bờ cõi nước Nam ta . 5. Phương pháp thảo luận: Là cách tổ chức đối thoại giữa HS và GV hoặc giữa HS và HS nhằm huy động trí tuệ của tập thể để giải quyết một vấn đề do môn học đặt ra. Học sinh giữ vai trò tích cực và chủ động tham gia thảo luận và tranh luận. Giáo viên giữ vai trò nêu vấn đề. Học sinh mạnh dạn tham gia thảo luận đề xuất ý kiến của mình rồi từ đó phát triển lòng tự tin, tính độc lập của học sinh. Ví dụ:Để học sinh có nhận biết đúng đắn về Nguyễn Trường Tộ trong bài “Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước” Tôi cho HS tổ chức cho HS đối thoại, thảo luận: Trình bày ý kiến đánh giá của em về Nguyễn Trường Tộ: Trước hoạ xâm lăng Nguyễn Trường Tộ không cầm vũ khí đứng lên chống Pháp. Theo em Nguyễn Trường Tộ có phải là người yêu nước không? Học sinh thảo luận đưa ra các ý kiến khác nhau thậm chí là trái ngược nhau. Ví dụ có HS nêu: Trước hoạ xâm lăng thì mọi người dân yêu nước phải đứng nên chống giặc vì nhân dân ta có câu “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” Hay như Phan Bội Châu kêu gọi: “Bầu máu nóng chất quanh đầy ruột Anh em ơi mau tuốt gươm ra” Phải như vậy mới là yêu nước. Có HS lại nêu: Không phải cứ cầm súng đánh giặc mới là yêu nước mà những người cầm bút cũng là những người yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu viết: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khảm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” Như vậy Nguyễn Trường Tộ cũng có ý mong muốn dân giàu nước mạnh để đủ sức chống giặc như vậy cũng là yêu nước. https://dekiemtra.edu.vn/
GV sẽ làm trọng tài cho cuộc tranh luận này, phân tích rõ tình thế lúc bấy giờ để HS thấy được tấm lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ. Làm được như vậy là HS đã có quyền nói ra tiếng nói của mình từ đó phát triển lòng tự tin của các em. 6. Phương pháp điều tra: Trong khi dạy lịch sử là phương pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu một vấn đề và sau đó dựa trên các thông tin thu thập được để học sinh nắm chắc được kiến thức và bồi dưỡng lòng tự hào về quê hương. Ví dụ: Khi dạy những bài về cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi đã cho HS sưu tầm tìm hiểu, thu thập thông tin về cuộc kháng chiến này trên địa bàn tỉnh, huyện, xã mình để các em thấy được phong trào đấu tranh của quê hương mình và tự hào với những chiến công mà ông cha mình đã giành được. Từ đó các em sẽ thấy môn lịch sử nó rất gần gũi với các em. Các em sẽ say mê tìm hiểu và tiếp thu bài dễ dàng hơn. Lịch sử đã đi qua nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại dấu vết của nó qua kí ức của nhân loại(văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội); qua những thành tựu văn hóa vật chất (thành quách, nhà cửa; đình, chùa, miếu mạo, tượng đài,…); qua các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa; qua tên đất, tên làng, tên đường phố; qua tranh ảnh, báo chí đương thời; qua thái độ của người đương thời đối với các sự kiện lịch sử (những ngày kỉ niệm, những ngày lễ lớn,…) Chỉ có trên cơ sở những chứng cứ vật chất nói trên mới có sự nhận thức và trình bày về lịch sử. Ngày nay, ngoài những hình thức dạy học truyền thống, người ta hết sức quan tâm đến các hình thức tổ chức dạy học tại thực địa, bảo tàng, khu di tích,… tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên. Tại địa phương tôi, những dấu vết cổ xưa của lịch sử phong kiến không còn nữa. Những mái đình, mái chùa qua hàng chục năm đằm mình trong bom đạn nay đã được xây dựng lại, khang trang hơn, to đẹp hơn. Tuy nhiên, những nét đặc trưng của ngôi chùa từ thời Lý vẫn còn vẹn nguyên. Vì vậy, khi dạy bài Chùa thời Lý, tôi đã yêu cầu các em quan sát và nhận xét về đặc điểm ngôi chùa ở làng mình rồi từ đó đối chiếu với nội dung tìm hiểu trong bài, các em sẽ có nền tảng kiến thức thực tế vững chắc hơn. Đối với những bài học về nhân vật lịch sử, các cuộc khởi nghĩa,… tôi thường yêu cầu học sinh tìm hiểu qua suy nghĩ của ông, bà, cha, mẹ về https://dekiemtra.edu.vn/
những anh hùng lịch sử ấy, những chiến công oanh liệt ấy. Sự kế thừa lòng yêu nước, ngưỡng mộ các danh nhân lịch sử Việt Nam của các em qua ông bà, cha mẹ sẽ tốt hơn nhiều việc các em được giáo dục, bồi đắp qua các câu chữ khô khan, qua lời nói “suông” của giáo viên. Ví dụ: Khi dạy những bài Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông –Nguyên , hay bài Văn học khoa học thời Hậu Lê , tôi đã cho HS điều tra tìm hiểu về di tích Kiếp Bạc , Côn Sơn thuộc huyên Chí Linh Hải Dương xem nơi đó thờ ai ? có công trạng như thế nào ? Học sinh sẽ thu thập được rất nhiều thông tin về Trần Hưng Đạo hay Nguyễn Trãi . Từ đó các em sẽ thấy môn lịch sử nó rất gần gũi với các em. Các em sẽ say mê tìm hiểu và tiếp thu bài dễ dàng hơn và sẽ rất tự hào về quê hương mình. 7. Phương pháp đóng vai: Là cách tổ chức học sinh tham gia giải quyết một tình huống của nội dung học tập gắn liền với thực tế cuộc sống bằng cách diễn xuất một cách ngẫu hứng mà không cần kịch bản hoặc luyện tập trước. Phương pháp này giúp học sinh phát huy tính tưởng tượng của học sinh giúp các em có thể học tập các nhân vật lịch sử. Với phương pháp này giáo viên và học sinh cùng lựa chọn tình huống đóng vai, cùng bàn bạc cách thể hiện. Giáo viên không gò ép tình huống để học sinh mất hứng thú. Phương pháp này dạy với những bài lịch sử trong đó các nhân vật có những lời đối thoại đắt giá thể hiện được phẩm chất cao quý của nhân vật lịch sử. Kiểu bài 1: là học sinh có thể dựa vào nội dung sách giáo khoa và những câu nói của các nhân vật lịch sử tự dựng lên kịch bản để diễn. Ví dụ: Khi dạy bài “ Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông –Nguyên “. Để tái hiện lại tinh thần quyết tâm đánh giặc của quân dân nhà Trần ,giáo viên cho học sinh đóng vai một số nhân vật lịch sử như vua Trần , Trần Thủ Độ , các cụ bô lão … Cảnh 1 : Vua Trần họp bàn với Trần Thủ Độ về việc nên hòa hay nên đánh quân xâm lược . Học sinh có thể tự sáng tạo ra các tình tiết dựa vào nôpị dung SGK . Nhưng nhất thiết em đóng vai Trần Thủ Độ phải truyền đạt được toàn bộ nội dung câu nói : “ Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo“ để thấy được sự tự tin và tinh thần quyết tân giết giặc của Ông . Với cảnh 2 : Hội nghị Diên Hồng . https://dekiemtra.edu.vn/
Vua Trần mời các bô lão trong nước về Lăng Long họp bàn kế hoạch đánh giặc Mông –Nguyên lần 2 . HS có thể tự sáng tạo ra kịch bản dựa vào nội dung SGK và tài liệu GV cung cấp thêm để diễn xuất nhưng nhất thiết phải bộc lộ được sự đồng lòng nhất trí cao của các bô lão và người đóng vai Trần Hưng Đạo đọc bài Hịch tướng sĩ với giọng đọc đanh thép , ý chí quyết tâm để khích lệ được mọi người . GV cho HS đóng vai với sự phân công: 1 em dẫn chuyện 1 em đóng vai Trần Hưng Đạo 1 em đóng vai vua Trần Còn lại đóng vai các bô lão. Như vậy tất cả học sinh đều được tham gia vào vai diễn các em sẽ rất hào hứng học tập. Kiểu bài thứ 2:Học sinh chỉ việc đọc lại nội dung sách giáo khoa theo các vai nhưng cũng phải diễn xuất để thể hiện được nội dung của bài. 8. Phương pháp dạy học nêu vấn đề: Phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp giáo dục hiện đại được nhiều nước sử dụng. Để dạy học theo phương pháp dạy học nêu vấn đề, giáo viên đề xuất vấn đề, học sinh tìm cách giải quyết vấn đề và rút ra kết luận khoa học. Tình huống có vấn đề chính là mâu thuẫn giữa yêu cầu khách quan và vốn hiểu biết của học sinh. Tìm cách giải quyết được mâu thuẫn đó học sinh sẽ tìm ra tri thức mới hoặc phương pháp hành động mới. Dạy học bằng phương pháp nêu vấn đề có các mức độ khác nhau: Mức độ 1: Trình bày nêu vấn đề tức là giáo viên nêu ra tình huống có vấn đề, trình bày cách giải quyết và cuối cùng cũng chính giáo viên nêu ra kết luận. Với phương pháp này giáo viên trình bày tri thức trên cơ sở khoa học vững chắc do đó có thể coi như giới thiệu về sự mẫu mực của hoạt động tìm tòi khoa học, gây hứng thú cho người nghe và tiết kiệm thời gian. Thí dụ:Khi dạy bài : Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông –Nguyên GV lần lượt nêu ra các bước https://dekiemtra.edu.vn/
-GV nêu vấn đề : Vào thế kỷ 13 vua tôi nhà Trần đứng trước họa xâm lược của quân Mông –Nguyên là một đội quân hùng mạnh và hung hãn đã đánh chiếm Trung Quốc và gần hết Châu Âu. -Đặt vấn đề: Trước tình hình đó dân tộc ta nên hòa hay nên chiến? -GQVĐ: Vua nhà Trần quyết định họphội nghị các vị bô lão trong cả nước (Hội nghị Diên Hồng ) phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc để khẳng định quyết tâm đánh giặc . * Mức độ 2: Tìm tòi và giải quyết vấn đề: ở mức độ này giáo viên nêu ra tình huống có vấn đề sau đó học sinh thảo luận thống nhất đưa ra cách giải quyết vấn đề. Ví dụ: Khi dạy bài : Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất (981 ) giáo viên đặt vấn đề : Việc Lê Hoàn lên ngôi vua có hai ý kiến khác nhau : + Thái hậu Dương Vân Nga yêu quý Lê Hoàn nên đã trao cho ông ngôi vua. + Lê Hoàn được tôn lên làm vua là phù hợp với tình hình đất nước và nguyện vọng của nhân dân lúc đó . Học sinh dựa vào SGK thảo luận để tìm ra ý kiến đúng và trình bày GV chốt ý kiến đúng : (ý thứ hai đúng vì : Đinh Toàn lên ngôi còn quả nhỏ không lo nổi việc nước , nhà Tống lợi dụng thời cơ đó đem quân sang xâm lược , Lê Hoàn lúc đó đang là Thập đạo tướng quân là người tài giỏi nên được mời lên làm vua . *Mức độ 3: nêu tình huống có vấn đề để cuốn hút học sinh cùng tham gia giải quyết vấn đề. Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai (1075 – 1077)” GV nêu vấn đề: Sau lần thất bại đầu tiên của cuộc tiến công xâm lược nước ta lần thứ nhất năm 981 , nhà Tống luôn ấp ủ âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa . Năm 1072 ,vua Lý Thánh Tông từ trần , vua Lý Nhân Tông lên ngôi khi mới 7 tuổi . Nhà Tống coi đó là một cơ hội tốt liền xúc tiến việc xâm lược nước ta . Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn ấy , ai sẽ là người lãnh đạo nhân ta kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai diễn ra như thế nào ? Bài học hôm nay sẽ giúp các em trả lời câu hỏi này. Làm được như vậy HS sẽ rất háo hức muốn tìm hiểu để trả lời vấn đề Gv vừa nêu . 9.Phương pháp trò chơi. https://dekiemtra.edu.vn/
Để kiến thức lịch sử được khắc sâu một cách nhẹ nhàng thoải mái giáo viên có thể tổ chức các trò chơi cho học sinh dựa vào nội dung bài học. Có thể giáo viên tổ chức theo phuơng pháp đóng vai hoặc tìm những câu đố về danh nhân, di tích lịch sử để vận dụng vào bài học. + Ví dụ: dạy bài “Nhà Lý dời đô ra Thăng Long” GV ra những câu đố: “Vua nào xuống chiếu dời đô Về Thăng Long vững cơ đồ nước Nam” -Là ai ? Trả lời:Vua Lý Thái Tổ. Khi dạy những bài ôn tập ta có thể tổ chức các trò chơi như “Ô chữ kỳ diệu” hoặc giải câu đố. + Ví dụ dạy bài Tổng kết Để giúp học sinh ghi nhớ một số nhân vật hoặc địa danh lịch sử và có hứng thú trong học tập , giáo viên sưu tầm một số câu đố liên quan đến bài học rồi viết vào phiếu (mỗi phiếu một câu ), học sinh xung phong bốc thăm được câu đố nào giải đáp câu đố đó. Câu đố 1: Vua gì từ tuổi ấu thơ Cờ lau tập trận đợi giờ khởi binh Câu đố 2: Vua nào đại phá quân Thanh Đống Đa lưu dấu sử xanh muôn đời ? Câu đố 3 : Sông nào nổi sóng bạc đầu Ba phen cọc gỗ đâm tàu giặc tan? Câu đố 4: Ải nào núi đá giăng giăng Năm xưa tướng giặc Liễu Thăng rụng đầu? Câu đố 5: Gò nào thây giặc chất cao Quang Trung thừa thắng tiến vào Thăng Long? Câu đố 6 :Thông minh và dũngcảm Được vua Lý tin yêu Bên bờ sông NhưNguyệt Ngâm vang bài thơthần. Đáp án : 1.Đinh Tiên Hoàng; 2. Quang Trung ; 3.Bạch Đằng; https://dekiemtra.edu.vn/
4. Ải Chi Lăng ; 5. Gò Đống Đa : 6 . Lý ThườngKiệt C. HÌNH THỨC TỔ CHỨC BÀI HỌC THEO QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC: Thực tế kinh nghiệm giảng dạy cho thấy không có phương pháp nào là vạn năng. Trong một bài học không bao giờ chỉ dùng một phương pháp dạy học mà thành công. Một bài học tốt là kết quả của việc phối hợp sử dụng nhiều phương pháp dạy học một cách hợp lý. Tuỳ từng bài học ,tuỳ từng hoạt động của mỗi phần ,tuỳ từng đối tượng hs giáo viên quyết định lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp sao cho tương tác giữa thày và trò trong quá trình lĩnh hội tri thức của trò đạt kết quả cao nhất. 1. Hoạt động định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập Hoạt động này thường diễn ra ở đầu giờ học , hoặc đầu mỗi phần của bài học,bằng nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp quan sát, phương pháp kể chuyện , phương pháp dạy học nêu vấn đề, GV nêu vấn đề (câu hỏi) hướng HS vào vấn đề cần giải quyết. Muốn định hướng mục tiêu , xác định nhiệm vụ học tập được tốt, phần nêu vấn đề của giáo viên phải đạt được các yêu cầu sau: -Lời dẫn phải súc tích , giàu tính khái quát và giàu hình ảnh. -Phải đề cập tới vấn đề cốt lõi của bài học, -Tạo ấn tượng , gợi trí tò mò của HS. 2.Hoạt động tổ chức cho học sinh tiếp cận nguồn sử liệu Việc tổ chức cho Hs tiếp cận nguồn sử liệu (kênh chữ ,kênh hình ) trong SGK giúp các em có những hình ảnh cụ thể về sự kiện ,hiện tượng lịch sử .Đây là khâu cực kỳ quan trọng của quá trình nhận thức lịch sử . Bởi nếu không dựa trên các hình ảnh của sự kiện thì học sinh không thể nhận thức và tư duy . ở bước này GV có thể sử dụng một số phương pháp sau: phương pháp quan sát (trên các phương tiện trực quan), phương pháp kể chuyện , phương pháp truyền đạt, phương pháp dạy học nêu vấn đề….Lịch sử đã đi qua nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại dấu vết của nó qua kí ức của nhân loại(văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội); qua những thành tựu văn hóa vật chất (thành quách, nhà cửa; đình, chùa, miếu mạo, tượng đài,…); qua các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa; qua tên đất, tên làng, tên đường phố; qua tranh ảnh, báo chí đương thời; qua thái độ của người đương thời đối với các sự kiện lịch sử (những ngày kỉ niệm, những ngày lễ lớn,…) Chỉ có trên cơ https://dekiemtra.edu.vn/
sở những chứng cứ vật chất nói trên mới có sự nhận thức và trình bày về lịch sử. Ngày nay, ngoài những hình thức dạy học truyền thống, người ta hết sức quan tâm đến các hình thức tổ chức dạy học tại thực địa, bảo tàng, khu di tích,… tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên. Tại địa phương, những dấu vết cổ xưa của lịch sử phong kiến không còn nữa. Những mái đình, mái chùa qua hàng chục năm đằm mình trong bom đạn nay đã được xây dựng lại, khang trang hơn, to đẹp hơn. Tuy nhiên, những nét đặc trưng của ngôi chùa từ thời Lý vẫn còn vẹn nguyên. Vì vậy, khi dạy bài Chùa thời Lý, tôi đã yêu cầu các em quan sát và nhận xét về đặc điểm ngôi chùa ở làng mình rồi từ đó đối chiếu với nội dung tìm hiểu trong bài, các em sẽ có nền tảng kiến thức thực tế vững chắc hơn. 3.Hoạt động tổ chức cho hs làm việc , tự giải quyết các nhiệm vụ học tập Giáo viên đưa ra các ý kiến khác nhau để học sinh trao đổi, thảo luận, lựa chọn, nêu ý kiến riêng của mình. Tuy nhiên, không phải bất cứ bài học nào, phần kiến thức nào cũng đem ra thảo luận. Tùy từng dạng bài, tùy từng phần kiến thức mà giáo viên cho học sinh thảo luận.Thông thường chỉ những phần kiến thức phức tạp, có nhiều cách hiểu khác nhau, hay những câu hỏi, những bài tập khó cần có sự hợp tác giữa các cá nhân thì nên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm. Khi thảo luận nhóm, giáo viên cần lưu ý đến thời gian tiết học, không gian lớp học và số lượng học sinh … để tổ chức thảo luận nhóm một cách hợp lí. Không nên lạm dụng phương pháp này trong suốt tiết học cũng như phải hết sức tránh tính hình thức trong thảo luận nhóm. ❖Ví dụ: Bài 10- Chùa thời Lý. Hoạt động của giáo viên Hoạt động 2:Sự phát triển của đạo Phật dưới thời Lý - Gv chia học sinh thành các nhóm 4, yêu cầu học sinh đọc SGK và thảo luận để trả lời câu hỏi: Những sự việc nào cho ta thấy dưới thời Lý, đạo Phật rất thịnh đạt? - Gv gọi đại diện các nhóm Hoạt động của trò - Hs chia thành nhóm 4 cùng thảo luận để tìm câu trả lời. - Đại diện học sinh một nhóm https://dekiemtra.edu.vn/
phát biểu. nêu ý kiến,các nhóm khác bổ sung và thống nhất câu trả lời đúng là: + Đạo Phật được truyền bá rộng rãi trong cả nước, nhân dân theo đạo Phật rất đông, nhiều nhà vua thời này cũng theo đạo Phật. Nhiều nhà sư được giữ cương vị quan trọng trong triều đình.+ Chùa được mọc lên khắp nơi, năm 1031, triều đình bỏ tiền xây dựng 950 ngôi chùa, nhân dân cũng đóng góp tiền xây chùa. - Gv kết luận: Dưới thời Lý, đạo Phật rất phát triển và được xem là Quốc giáo. (là tôn giáo của quốc gia) Gv cần tổ chức cho học sinh làm việc, tự giải quyết các nhiệm vụ học tập mà bản thân đã nêu ra ở đầu giờ hoặc đầu mỗi phần của bài học. Ở bước này , chúng ta có thể sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp hỏi đáp, phương pháp trò chơi , phương pháp điều tra… 4. Hoạt động kết luận vấn đề Gv cho Hs nhận xét ,đánh giá những ý kiến của cá nhân hoặc nhóm xem các bạn nói đúng hay sai ,cần bổ sung gì không bằng phương pháp hỏi đáp. Sau đó Gv kết luận khẳng định những kết quả học tập của Hs ,chốt lại những vấn đề cần nắm chắc bằng phương pháp truyền đạt. 5. Hoạt động dạy Lịch sử qua các hoạt động ngoại khóa. Bên cạnh những giờ học trên lớp chật hẹp, ngoại khóa là điều cần thiết để giải tỏa những căng thẳng và bổ sung thêm nhiều kiến thức cho học sinh. Nếu dạy học Lịch sử lớp 5 với những câu chuyện, những kỉ niệm chân thực về một thời lửa đạn được các nhân chứng- những cựu chiến binh trở về từ bom đạn kể lại sẽ thu hút học sinh đến với lịch sử mạnh mẽ hơn, tích cực hơn. Nhưng Lịch sử lớp 4, nội dung là kiến thức các triều đại phong kiến, ta không thể mời nhân chứng từ quá khứ về kể chuyện cho học sinh nghe. Vì vậy, tổ chức cho học sinh thăm quan các khu di tích lịch sử như Đền Hùng, Cổ Loa, Hoa Lư, …, các viện bảo tàng lịch sử đề các em được tận mắt nhìn, được sờ tận tay các di vật từ lịch sử, được cảm nhận khí thế Đông A hùng thiêng của dân ta thời Trần,… các em sẽ hứng thú hơn với Lịch sử nước nhà, hình thành thói quen tự giác tìm hiểu Lịch sử quốc gia. Tất cả các kiến thức ấy sẽ thấm dần vào nhận https://dekiemtra.edu.vn/
thức của học sinh một cách tự giác chứ không phải nhồi nhét một cách thụ động, tiêu cực. Vẫn biết phương pháp trên mang lại hiệu quả giáo dục tích cực nhưng trên thực tế, việc tổ chức cho học sinh thăm quan các khu di tích lịch sử vượt quá tầm khả năng của chúng tôi.Vì địa phương tôi công tác rất xa các các khu di tích lịch sử, các em học sinh lại quá nhỏ, kinh phí eo hẹp. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy, chúng ta có tổ chức các buổi triển lãm tranh ảnh lịch sử theo giai đoạn. (Phần lớn tranh ảnh là do tôi sưu tầm trên mạng, trên sách báo), tổ chức các trò chơi “Theo dòng lịch sử” dưới hình thức “Rung chuông vàng”, “Đường lên đỉnh Olympia” để củng cố kiến thức lịch sử cho học sinh. Tổ chức các buổi kể chuyện lịch sử cho học sinh nghe. (Nguồn truyện lấy từ cuốn Đại Việt sử kí toàn thư, Các triều đại Việt Nam) nhằm tăng sự hứng thú học Lịch sử cho học sinh trong lớp. https://dekiemtra.edu.vn/