1 / 158

Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn ở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình

Mu1ee5c tiu00eau lu1edbn nhu1ea5t mu00e0 u0111u1ec1 tu00e0i hu01b0u1edbng tu1edbi lu00e0 qua quu00e1 tru00ecnh khu1ea3o su00e1t, u0111u00e1nh giu00e1 cu00f4ng tu00e1c u00f4n luyu1ec7n hu1ecdc sinh giu1ecfi Vu0103n cu1ee7a tru01b0u1eddng trong nhiu1ec1u nu0103m qua u0111u1ec3 ru00fat ra nhu1eefng bu00e0i hu1ecdc kinh nghiu1ec7m nhu1eb1m duy tru00ec vu00e0 phu00e1t huy hu01a1n nu1eefa thu00e0nh tu00edch hu1ecdc tu1eadp - giu1ea3ng du1ea1y mu00f4n Vu0103n cu1ee7a nhu00e0 tru01b0u1eddng.<br>u0110u00e2y cu0169ng lu00e0 cu01a1 hu1ed9i u0111u1ec3 nhu00f3m giu00e1o viu00ean Ngu1eef vu0103n chu00fang tu00f4i u0111u01b0u1ee3c trao u0111u1ed5i, hu1ecdc tu1eadp kinh nghiu1ec7m lu1eabn nhau, qua u0111u00f3 mu1ed7i ngu01b0u1eddi du1ea7n du1ea7n tu1ef1 hou00e0n thiu1ec7n chu00ednh bu1ea3n thu00e2n u0111u1ed3ng thu1eddi thu00fac u0111u1ea9y chu1ea5t lu01b0u1ee3ng du1ea1y - hu1ecdc bu1ed9 mu00f4n trong nhu00e0 tru01b0u1eddng.

Télécharger la présentation

Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn ở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. PHẦN THỨ NHẤT MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài: M. Gorki - một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nuớc Nga -Xô Viết từng để lại câu nói nổi tiếng: “Văn học là nhân học”. Quả đúng như vậy, “văn” chính là “người”. Học văn không chỉ học kiến thức văn học mà còn học nhân cách làm người. Có lẽvì vậy mà từ xưa đến nay, dạy Văn luôn là một công việc nhọc nhằn, vất vảcủa người thầy. Tuy nhiên dạy Văn đã khó, dạy học sinh giỏi Văn lại càng khó hơn. Dẫu biết đây là công việc nhiều gian nan của những ai thật sự tâm huyết với nghề, song chúng tôi - những giáo viên may mắn và cũng rất tự hào đuợc công tác và trưởng thành từ một mái trường anh hùng: Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình –đã luôn luôn nỗ lực hết mình trong công tác giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi Văn. Lặng lẽ mà miệt mài, âm thầm mà tận tụy - các thầy giáo, cô giáo nơi đây cùng với các thế hệ học sinh trong đội tuyển Văn đã liên tục ghi những nét son trong bảng vàng thành tích học tập của nhà trường. Chúng tôi biết rằng, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Văn ở các trường phổ thông không phải là một điều mới mẻ. Những điều chúng tôi nêu ra có thể đồng nghiệp ở trường bạn đã làm và làm rất thành công. Song với tính chất đặc thù của một mái trường có nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo con em các dân tộc thiểu số của tỉnh nhà, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Bồi dưỡng học sinh giỏiVăn ở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình” với mong muốn đây sẽ là dịp thuận lợi để nhóm giáo viên Ngữ văn của trường cùng nhìn nhận, đánh giá lại và định hướng những gì mình đã, đang và sẽ làm. Những ý kiến đưa ra trước hết là bài học kinh nghiệm cho chính bản thân chúng tôi; sau nữa là mạnh dạn chia sẻ với đồng nghiệp. Hi vọng chúng 1 https://tailieu.top/

  2. ta sẽ cùng trao đổi, học tập, cùng cảm thông, thấu hiểu và cùng tiến bộ trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn. 2.Mục đích nghiên cứu: Mục tiêu lớn nhất mà đề tài hướng tới là qua quá trình khảo sát, đánh giá công tác ôn luyện học sinh giỏi Văn của trường trong nhiều năm qua để rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm duy trì và phát huy hơn nữa thành tích học tập - giảng dạy môn Văn của nhà trường. Đây cũng là cơ hội để nhóm giáo viên Ngữ văn chúng tôi được trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, qua đó mỗi người dần dần tự hoàn thiện chính bản thân đồng thời thúc đẩy chất lượng dạy - học bộ môn trong nhà trường. 3.Khách thể và đối tượng nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu: Quá trình ôn luyện học sinh giỏi Văn tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình. Đối tượng nghiên cứu: Việc giảng dạy đội tuyển học sinh giỏi Văn của giáo viên và việc ôn luyện trong đội tuyển Văn của học sinh tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hòa Bình. 4.Giả thuyết khoa học: Những nhìn nhận, đánh giá được chúng tôi nêu ra trong đề tài nghiên cứu sẽ có ý nghĩa to lớn đối với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Văn của trường trong những năm tiếp theo: Phát huy thành tích đã đạt được và không ngừng đổi mới, sáng tạo để duy trì, phát triển hiệu quả dạy học cho học sinh giỏi Văn ở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình. 5.Phương pháp nghiên cứu: 5.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận: - Phương pháp nghiên cứu tổng hợp ( văn hoá, tâm lí học, lí luận văn học...) - Phương pháp phân tích 5.2.Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: 2 https://tailieu.top/

  3. - Phương pháp khảo sát, thống kê. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.. 6.Cơ sở, phạm vi, thời gian nghiên cứu: 6.1.Cơ sở: - Cơ sởlí luận của đề tài nghiên cứu: Đặc trưng bộ môn Văn - Cơ sở thực tiễn của đề tài: + Thực trạng kinh tế xã hội. + Thực trạng dạy học đội tuyển học sinh giỏi Văn tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình. 6.2.Phạm vi nghiên cứu. Công tác ôn luyện học sinh giỏi văn của trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình khi nhà trường đã chuyển sang mô hình trường THPT. 6.3.Thời gian nghiên cứu. Từ tháng 8 / 2012 đến tháng 4/ 2013. 3 https://tailieu.top/

  4. PHẦN THỨ HAI QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu Đây không phải là lần đầu tiên công tác ôn luyện học sinh giỏi Văn tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnhHòa Bình được đề cập tới. Điều này đã được bàn đến qua: •Sáng kiến kinh nghiệm của thầy Nguyễn Đại Dương ( năm học 1993 – 1994). •Hai hội thảo khoa học về dạy chuyên và luyện đội tuyển học sinh giỏi (năm học 1993 – 1994 và 1994 –1995) do hội đồng sư phạm trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hòa Bình tổ chức. •Sáng kiến kinh nghiệm của thầy Quách Đình Hải (năm học 1998 – 1999). Qua những sáng kiến và hội thảo khoa học nói trên, một số thực trạng ôn luyện học sinh giỏi Văn đã được nêu ra, một số giải pháp đã đươc thảo luận, một số đề xuất đã được ứng dụng đạt hiệu quả đáng khen ngợi. Tuy nhiên, bên cạnh những nét chung có thể thống nhất về quan điểm giải pháp…cho việc ôn luyện học sinh giỏi Văn thì từ đó đến nay, việc ôn luyện học sinh giỏi Văn tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình luôn không ngừng biến đổi theo quá trình phát triển của nhà trường, thay đổi theo nội dung chương trình, hình thức kiểm tra đánh giá của sách giáo khoa mới.Vì vậy, khi chọn đề tài nghiên cứu “Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn tại trường Dân tộc Nội trú tỉnh Hoà Bình ” cho năm học 2012- 2013, chúng tôi mong muốn một lần nữa đánh giá, tổng hợp lại những kinh nghiệm có tính chất truyền thống mà chúng tôi đã vàvẫnđanglàm; đồng thời đề xuất một số giải pháp mà các thầy cô giáo ở các thế hệ sau đang vận dụng trong quá trình ôn luyện học sinh giỏi Văn của trường trong thời điểm hiện tại. Đề tài mà 4 https://tailieu.top/

  5. chúng tôi nghiên cứu mang tính chất tiếp nối, kế thừa, phát huy chứ không phải là những sáng tạo hoàn toàn mới mẻ. 2.Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: Đặc trưng bộ môn Văn Mỗi bộ môn được giảng dạy trong nhà trường phổ thông đều có những đặc trưng riêng của nó. Thiết nghĩ để việc dạy –học có hiệu quả, mỗi người thầy cần hiểuđúng, nắm chắc những đặc trưng của bộ môn mình đảm nhiệm để từ đó có những phương pháp dạy –học hiệu quả, phù hợp với đặc trưng môn học. Điều này còn cần thiết, quan trọng hơn rất nhiều đối với những ai phụtrách công tác ôn luyện học sinh giỏi. Riêng với môn Văn, chúng ta hãy cùng nhau điểm lại sơ lược những đặc trưng cơ bản nhất của bộ môn này (nhìn từ góc độ bản chất thẩm mĩ của văn học). 2.1. Văn học –hình thái ý thức thẩm mĩ. 2. 1.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học: * Đối tượng của văn học: Nội dung là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau của văn học so với các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, đạo đức, tôn giáo, lịch sử, địa lí, sinh học... Nội dung, trước hết là cái được nhận thức, chiếm lĩnh từ đối tượng. Vậy đối tượng của văn học là gì? Các nhà mĩ học duy vật từ xưa đến nay đều khẳng định: đối tượng của nghệ thuật chính là toàn bộ đời sống hiện thực khách quan.Như vậy, có thể nói, đối tượng của văn học, nghệ thuật là toàn bộ đời sống xã hội và tự nhiên. Tsécnưsépxki từng nói: “Cái đẹp là cuộc sống” vì lí do đó. Nhưng phạm vi này vô cùng rộng. Bởi lẽ, nếu nói đối tượng của văn học là đời sống thì chưa tách biệt với đối tượng của các ngành khoa học và các hình thái ý thức xã hội khác như lịch sử, địa lí, hóa học, y học, chính trị, đạo đức... Văn học phải có cách nhận thức và thể hiện đối tượng khác biệt. Nếu như đối tượng của triết học là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; đối tượng của 5 https://tailieu.top/

  6. lịch sử là các sự kiện lịch sử, sự thay thế nhau của các chế độ; đối tượng của đạo đức học là các chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ người với người... thì đối tượng của văn học là toàn bộ đời sống hiện thực, nhưng chỉ là hiện thực có ý nghĩa đối với đời sống tâm hồn, tình cảm con người. Tức là, dù văn học có miêu tả thế giới bên ngoài như thiên nhiên, lịch sử, chiến tranh, hòa bình..., văn học cũng chỉ chú ý tới quan hệ của chúng đối với con người. * Nội dung của văn học: Nội dung văn học là toàn bộ đời sống đã được ý thức, cảm xúc, đánh giá và phán xét phù hợp với một tư tưởng về đời sống, một cảm hứng và một lí tưởng thẩm mĩ và xã hội nhất định. Đó là một nội dung hòa quyện giữa hai mặt khách quan và chủ quan, vừa có phần khái quát, tái hiện đời sống khách quan vừa có phần bắt nguồn từ nhận thức, cảm hứng và lí tưởng của nghệ sĩ. Nội dung khách quan của văn học là toàn bộ đời sống hiện thực được tái hiện, từ các vấn đề lịch sử, con người, phong tục, đạo đức, xã hội, từ các chi tiết hiện thực đời sống nhỏ nhặt đến những biến cố xã hội lớn lao. Không chỉ miêu tả đời sống khách quan trong văn học còn thể hiện những tình cảm xã hội, ước mơ, khát vọng, cảm hứng, lí tưởng thẩm mĩ, những chân lí được thể nghiệm, những thiên hướng đánh giá... của chính tác giả. Toàn bộ đời sống hiện thực đi vào tác phẩm đã hóa thành nỗi niềm, khát vọng. Đọc Truyện Kiều, ta đâu chỉ thấy bộ mặt đời sống hiện thực xã hội phong kiến mà còn cảm nhận “tấm lòng sáu cõi, rộng nghìn đời”của Nguyễn Du thấm từng con chữ. Người xưa nói “viết như máu chảy đầu ngọn bút” chính là nói đến phần nội dung đầy cảm xúc chủ quan mãnh liệt này của chính bản thân con người sáng tác. Như vậy, nội dung chủ quan của văn học là hiện thực được nhìn nhận dưới con mắt nghệ sĩ, được khái quát theo kiểu nghệ thuật, được phơi bày dưới ánh sáng một thế giới quan, một lí tưởng thẩm mĩ và những thiên hướng tình cảm nhất định. Trong văn học, hai nội dung khách quan và chủ quan này không hề tách bạch, mà xuyên thấm trong hình tượng. Khi chúng ta chiêm ngưỡng một hình 6 https://tailieu.top/

  7. tượng nghệ thuật,trong đó đã bao hàm sự phản ánh, đánh giá, cũng nhưsự lí giải đời sống một cách trọn vẹn. 2.1.2. Hình tượng văn học * Khái niệm Văn học nhận thức đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm, khát vọng và mơ ước của con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng chính là phương thức phản ánh thế giới của văn học. được sáng tạo bằng hư cấu và tưởng tượng, vừa cụ thể vừa khái quát, mang tính điển hình, giàu ý nghĩa thẩm mĩ, thể hiện tư tưởng và tình cảm con người. * Đặc trưng của hình tượng Hình tượng văn học gồm những đặc trưng cơ bản như sau: Hình tượng là một khách thể mang tính tinh thần; Hình tượng mang tính tạo hình và biểu hiện; Tính quy ước và sáng tạo của hình tượng; Hình tượng chứa đựng tình cảm xã hội và lí tưởng thẩm mĩ; Tính nghệ thuật của hình tượng. (Do vấn đề này khá rộng và xa với mục đích nghiên cứu của đề tài nên chúng tôi không tiến hành phân tích cụ thể mà chỉ điểm qua những nét cơ bản). Tóm lại, những đặc trưng riêng biệt về đối tượng, nội dung, phương thức phản ánh hiện thực đã phân biệt văn học là một hình thái ý thức thẩm mĩ đặc thù, Với những nét riêng ấy, việc tiếp nhận văn học đòi hỏi cónhững phương pháp, cách thức vàcon đường riêng. 2.2. Văn học –nghệ thuật ngôn từ 2.2.1. Ngôn từ - chất liệu của văn học Văn học không chỉ là một loại hình ý thức xã hội mà còn là một loại hình nghệ thuật. Mỗi loại hình nghệ thuật có vai trò và vị trí riêng trong đời sống tình cảm của con người. Xét đến cùng đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật đều bắt nguồn từ chất liệu của nó. Ví dụ chất liệu của hội hoạ là màu sắc, đường nét, của vũ đạo là hình thể động tác, của âm nhạc là âm thanh, tiết tấu, v.v... Chất liệu của văn học là ngôn từ. Tìm hiểu văn học như nghệ thuật ngôn từ là tìm hiểu đặc thù riêng của văn học trong mối tương quan với các loại 7 https://tailieu.top/

  8. hình nghệ thuật khác. Với tư cách là một bộmôn nghệ thuật ngôn từ, văn học có những đặc điểm cơ bản như sau: * Tính chất phi vật thể của hình tượng văn học Được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ, hình tượng văn học là một loại hình tượng gián tiếp chỉ có thể hiện lên qua sự hình dung, tái tạo, qua trí tưởng tượng của người đọc. Hình tượng văn học tác động vào trí tuệ và sự liên tưởng của người đọc. Không ai nhìn thấy hình tượng văn học bằng mắt thường. Nó chỉ bộc lộ qua cái “nhìn” bên trong thầm kín. Đó là tính chất tinh thần hay tính phi vật thể của hình tượng văn học. * Thời gian và không gian trong văn học Không gian và thời gian là phương thức tồn tại của bản thân hình tượng. Đặc thù gián tiếp của hình tượng văn học đã đưa đến chỗ mạnh của việc sử dụng hai phương thức này. Thời gian trong văn học có những nhịp điệu, sắc độ riêng để phản ánh hiện thực. Văn học có thể kéo dài thời gian bằng cách miêu tả rất tỉ mỉ mọi diễn biến tâm trạng, mọi diễn biến hành động của nhân vật của các sự kiện. Ngược lại, nhà văn có thể làm cho thời gian trôi nhanh đi bằng cách dồn nén làm cho khoảng một thời gian dài chỉ qua một dòng trần thuật ngắn. Chính nhờ ngôn từ mà hình tượng văn học có những hình thức thời gian đặc biệt để văn học có thể chiếm lĩnh đời sống trên một tầm sâu rộng mà hội hoạ và điêu khắc khó bề đạt được. Không gian trong văn học cũng có những nét đặc thù. Không gian chính là môi trường tồn tại của con người: dòng sông, cánh đồng, ngọn núi, đèo xa, biển cả... Với mỗi không gian tồn tại, con người có một phong thái sống riêng biệt. Còn trong văn học, không gian không hề bị một giới hạn nào, con người có thể đi từ thế giới này sang thế giới khác một cách dễ dàng. Đặc sắc này làm cho văn học phản ánh đời sống trong sự toàn vẹn, đầy đặn của nó. * Khả năng phản ánh ngôn ngữ và tư tưởng của hình tượng văn học 8 https://tailieu.top/

  9. Người ta cho rằng: ngôn từ chẳng những là phương tiện miêu tả, mà còn là đối tượng miêu tả của văn học. Hoạt động lời nói, suy nghĩ là một mặt cơ bản của đời sống xã hội của con người. Qua văn học ta có thể nghe thấy tiếng nói của mọi tầng lớp người ở các thời đại khác nhau. Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học có khả năng miêu tả tư tưởng và các xung đột tư tưởng, nên tính tư tưởng của tác phẩm văn học sắc bén hơn. Không những văn học mang tính khuynh hướng tư tưởng rõ rệt mà còn có khả năng thâm nhập sâu xa vào dòng ý thức, dòng tình cảm của con người. Nghệ thuật miêu tả tâm lí của Tônxtôi đạt đến trình độ phép biện chứng tâm hồn chính vì đã miêu tả được sự vận động tất yếu của dòng cảm xúc và ý nghĩ của nhân vật. 2.3 Tính đa chức năng của văn học 2.3.1.Chức năng thẩm mĩ Chức năng thẩm mĩ là khả năng của văn học làm thỏa mãn khoái cảm thẩm mĩ, từ đó xây dựng, bồi đắp tình cảm thẩm mĩ và ý thức thẩm mĩ cho con người. *Thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ Văn học nghệ thuật có khả năng làm thỏa mãn khoái cảm thẩm mĩ (aesthetic - còn gọi là mĩ cảm) của con người, tức là sự vui sướng, phấn khích, vui vẻ, dễ chịu, hấp dẫn khi tiếp xúc với tác phẩm nghệ thuật. Trước hết, đó là những giá trị hướng tới cái đẹp. Sáng tạo cái đẹp là một mục đích và nhu cầu của con người trong nhiều lĩnh vực. Trong nghệ thuật, cái đẹp không chỉ nằm trong yếu tố hình thức mà còn trong các yếu tố nội dung. Bên cạnh cái đẹp, còn có những nội dung tạo mĩ cảm khác như cái bi, cái hùng, cái cao cả, và cả cái tầm thường, cái xấu, cái gớm ghiếc... như là những phản đề của cái đẹp. Giá trị thẩm mĩ còn bộc lộ qua những điều sâu sắc, mới lạ, có ý nghĩa nhân sinh độc đáo, mang giá trị tinh thần cao; hoặc được tạo nên từ sự miêu tả chân thực cuộc sống. Miêu tả thật đúng, chính xác những nét tính cách, những 9 https://tailieu.top/

  10. phẩm chất của con người, dù có thể xấu xa nhưng cũng tạo nên sự hấp dẫn. Bởi đó chính là bản chất và tính đa dạng của cuộc sống đã hiện hình qua những nhân vật đó. Khoái cảm thẩm mĩ còn bắt nguồn từ việc thỏa mãn những ước mơ của con người. Trong văn học, con người có thể sống nhiều cuộc đời, có thể giãi bày những oan khuất, người tốt được đền bù, kẻ ác bị trừng phạt, công lí được thi hành, phù hợp với niềm tin và mơ ước của số đông. *Hình thành thị hiếu và lí tưởng thẩm mĩ Việc thường xuyên tiếp xúc với cái đẹp trong văn học sẽ giúp chúng ta trở nên sắc bén và tinh tế hơn khi nhận biết các vẻ đẹp trong đời sống. Thị hiếu thẩm mĩ là sự tập trung chú ý và khoái cảm của cá nhân hoặc cộng đồng vào một loại đối tượng gây mĩ cảm; còn lí tưởng thẩm mĩ là tiêu chuẩn cao nhất về cái đẹp mà con người hướng tới. 2.3.2.Chức năng nhận thức * Văn học cung cấp tri thức bách khoa về cuộc sống Chức năng nhận thức là chức năng đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người về thế giới. Hiện thực cuộc sống vô cùng phong phú với những kiến thức về địa lí, lịch sử, phong tục, tôn giáo, đạo đức, văn hóa của một dân tộc hoặc một thời đại. Nhưng nội dung nhận thức cơ bản nhất vẫn là đời sống tâm tư tình cảm và số phận con người thông qua những bức tranh thiên nhiên, phong tục và lịch sử đó. Gắn với đời sống con người là các vấn đề của đời sống vật chất và tinh thần con người: vấn đề tự do, độc lập, khát vọng hạnh phúc, khẳng định cá tính, quyền lực, rồi chuyện miếng ăn, cái đói... *Nhận thức cái khái quát qua cái cụ thể, cái mới lạ trong cái quen thuộc, làm cho con người có khả năng tự nhận thức Mục đích cuối cùng của nhận thức là hướng tới những khái quát lớn, khám phá bản chất, quy luật của các hiện tượng. Do phản ánh được bản chất và quy luật của đời sống hiện thực, các kiệt tác văn học bao giờ cũng có sức 10 https://tailieu.top/

  11. hấp dẫn mang tính thời đại. Nhưng nhận thức khái quát đó phải được nhận thức thông qua những hình tượng cụ thể.Ví như vẻ đẹp của Hà Nội được cảm nhận qua hương cốm mùa thu, một con ngõ nhỏ. 2.3.3.Chức năng khêu gợi tư tưởng, tình cảm (chức năng giáo dục) * Văn học khêu gợi tư tưởng tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn Chức năng giáo dục là chức năng giúp xây dựng một thái độ, một tình cảm nhất định đối với cuộc sống. Tác phẩm văn học bao giờ cũng phản ánh hiện thực trong tính khuynh hướng tư tưởng và tình cảm, bao giờ cũng toát lên nhiệt tình khẳng định hay phủ định, khát khao nhìn thấy lẽ phải, chân lí ở đời được thực hiện, cho nên văn học còn thức tỉnh con người lương tri, dạy biết yêu, biết căm giận, biết chia sẻ, xót thương... Văn học giúp hình thành thế giới quan và các quan điểm chính trị, xã hội. Văn học còn góp phần hình thành những quan điểm đạo đức. Văn học dạy ta biết yêu biết ghét, biết khinh bỉ sự phản trắc, cái tẹp nhẹp, tầm thường, cái lười biếng, độc ác gian tham. Văn học khơi dậy niềm tin vào sự tất thắng của cái thiện, niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai, dạy cho người ta biết xả thân vì nghĩa lớn, khát khao đóng góp cho cuộc sống ngày càng đẹp hơn. * Văn học giúp con người tự hoàn thiện nhân cách Văn học giúp tác động, cải tạo phẩm chất người (đạo đức, cách ứng xử, suy nghĩ phù hợp với lẽ phải, với tình thương, lòng nhân ái, làm cho con người hiểu nhau, sống tốt hơn, có ý nghĩa hơn, hướng tới sự hoàn thiện Văn học còn giúp rèn luyện và phát triển những giác quan thẩm mĩ, khả năng nhận biết cái đẹp trong đời sống và trong nghệ thuật. 2.3.4.Chức năng giao tiếp và giải trí Trong cuộc sống, việc giao tiếp diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức. Văn học thực hiện nhiệm vụ giao tiếp theo cách riêng. Trong tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ chuyển tải những thông tin thông thường, mà những 11 https://tailieu.top/

  12. thông tin ấy chứa đựng nội dung tư tưởng, tình cảm và mang tính khuynh hướng xã hội đậm nét. Với chức năng giao tiếp của mình, văn học đã mang tiếng nói của dân tộc này đến vớidân tộc khác làm cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn. Khi cầm bút sáng tác chính là lúc nhà văn muốn trình bày, muốn chia sẻ với bạn đọc những suy tư, những nỗi niềm để tâm hồn thanh thoát. Người đọc văn học cũng là để thư giãn sau những giờ phút lao động căng thẳng. Do đó, trong chức năng giao tiếp của văn học có chứa đựng cả chức năng giải trí. * Tóm lại, các chức năng nói trên của văn học không tách rời các giá trị chân –thiện –mĩ nên chúng cũng không thể tách rời. Sự gắn bó giữa các chức năng làm cho văn học có sức tác động sâu xa, bền bỉ, có sức sống mãnh liệt, dài lâu, không gì thay thế trong đời sống tinh thần của chúng ta. 3. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu 3.1. Thực trạng kinh tế xã hội Đặc việc dạy và học đối với học sinh giỏi bộ môn Văn trong bối cảnh nền kinh tế xã hội hiện nay chúng tôi nhận thấy: thực trạng kinh tế xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy –học Văn, nhất là bồi dưỡng học sinh giỏi Văn. Bởi vì, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin như ngày nay, học sinh được tiếp xúc rất sớm với các trang thiết bị hiện đại. Điều này giúp các em có thể cập nhập thông tin một cách nhanh chóng nhưng mặc khác cũng khiến nhiều em lười suy nghĩ, có thói quen ỷ lại vào máy móc.Thói lười suy nghĩ ngại tìm tòi từ ngữ, khiến cho khả năng diễn đạt của học sinh trước một vấn đề nào đó thường lung túng, “bí từ”, thậm chí rất ngô nghê. Chúng tôi vẫn phàn nàn là “ chất” văn của học sinh bây giờ ít quá! Thêm vào đó cuộc sống hiện đại khiến các em có một quan niệm sống và xu hướng chọn nghành nghề rất thực tế. Nhiều em không thích lựa chọn các nghành nghề khoa học xã hội vì ra trường khó xin việc làm, thu nhập thấp… Từ thực trạng trên mà việc dạy và học bộ môn Ngữ văn ở các trường Phổ 12 https://tailieu.top/

  13. thông gặp không ít khó khăn, Những em có niềm đam mê thực sự với môn Văn ngày càng ít ỏi. Rất nhiều học sinh cảm thục văn học không có tính hình tượng, không bằng trí tưởng tượng, sự liên tưởng mà bằng cái nhìn “ trần trụi”, thực tế của các em ngoài đời. 3.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Việc ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hòa Bình có những thuận lợi và khó khăn cơ bản như sau: Về thuận lợi: Do đặc thù của một trường chuyên biệt, học sinh học tập tại trường hầu hết là conem của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, các em được lớn lên từ núi rừng, bản làng với một tâm hồn hết sức trong sáng. Những cảm xúc văn chương trong tâm hồn các em hầu như còn được lưu giữ nguyên vẹn, chưa bị cái phồn tạp của cuộc sống đô thị làm cho mai một, mài mòn. Những tâm hồn trong sáng ấy lại được những bàn tay, khối óc của các thế hệ thầy cô giáo nơi đây ngày đêm miệt mài vun xới, như một mảnh đất màu mỡ, gặp dòng nước mát lành và đôi tay cần cù, khối óc sáng tạo của người gieo hạt nên đã cho kết quả những vụ mùa bội thu. Nhưng có thành quả nào không phải đánh đổi bằng mồ hôi và nước mắt? Để có được bề dày thành tích như ngày hôm nay, việc bồi dưỡng học sinh giỏi Văn của thầy và trò nhà trường đã phải đổi mặt với không ít khó khăn, thử thách. Là học sinh dân tộc nên học sinh vẫn có thói quen phát âm và viết theo tiếng địa phương. Cũng vì đa phần lớn lên từ miền quê nghèo nên trước khi lên đây, các em hầu như phải vừa học, vừa lao động giúp đỡ gia đình. Các em không có nhiều quĩ thời gian để học tập, không có nhiều sách tham khảo nâng có như học sinh thành phố. Những khó khăn đó khiến nhiều em trước khi bước vào ôn luyện đội tuyển có vốn văn học rất hạn chế. Với phương trâm “đãi cát tìm vàng” – chúng tôi –những thầy cô đang phụ trách công tác ôn luyện học sinh giỏi Văn của trường vẫn luôn tâm niệm: đây là một công việc nhọc nhằn nhưng cũng thật vinh quang; là trách nhiệm của một người giáo viên nhưng cũng là tình thương yêu đối với con em các dân tộc thiểu số của 13 https://tailieu.top/

  14. tỉnh nhà. Những khó khăn, thử thách đã không làm nản bước, chùn lòng các thầy cô giáo trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn của trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hòa Bình trong bao năm học vừa qua. 14 https://tailieu.top/

  15. CHƯƠNG 2 CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1. Việc phát hiện và chọn học sinh vào đội tuyển học sinh giỏi Văn. Việcphát hiện học sinh giỏi Văn người dân tộc cho đến nay chưa có một công trình khoa học sư phạm nào đề cập đến một cách kĩ càng và hệ thống. Nếu có nói đến thì cũng chỉ là vấn đề lẻ tẻ, những bài viết trong phạm vi nhỏ, tầm phổ biến chưa rộng, chưa có sức thuyết phục cao. Hơn thế, đây lại là một vấn đề vừa dựa vào lí giải khoa học nhưng vừa nặng về nhận định cảm tính. Tuỳ theo cách nhìn nhận cùa mỗi giáo viên mà học sinh này hay học sinh kia có năng lực học Văn. Vì vậy, việc chọn đội tuyển học sinh giỏi Văn thường gây ra những bàn luận sôi nổi của đội ngũ giáo viên và kể cả học sinh. Thậm chí có những ý kiến nhận định trái ngược nhau có khi tạo ra những ngạc nhiên đầy thú vị. Việc phát hiện học sinh giỏi Văn người dân tộc của chúng tôi không nằm ngoài thực trạng chung đó. Qua thực tế nhiều năm làm đội tuyển Văn, chúng tôi cho rằng: Việc phát hiện học sinh giỏi Văn người dân tộc tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Hòa Bình phải chú trọng, căn cứ vào những yếu tố sau : 1.1. Nguyên tắc lựa chọn: Thứ nhất, cần xem xét xem tố chất học Văn của học sinh đó có tốt không như: tiếp thu nhanh, trí nhớ bền vững, có khả năng phát hiện vấn đề và khả năng sáng tạo. Điều này được xem xét qua các bài làm văn hoặc những câu trả lời miệng của học sinh trong giờ học văn, trong các buổi ngoại khoá văn học. Thứ hai, chọn học sinh có vốn tri thức phong phú và hệ thống, thuộc nhiều thơ văn trong, ngoài nhà trường qua sự tìm đọc tích luỹ, phải có sự hiểu biết càng nhiều càng tốt về con người và xã hội. 15 https://tailieu.top/

  16. Chẳnghạn nhờ có sự say mê tìm đọc mà một học sinh đã biết thêm ý kiến của thầy giáo Mai Văn Hoan về cách hiểu câu thơ: Tình yêu ta nhưcánh kiến hoa vànglà phải dựa vào đặc điểm cây Bồ đề - một loài cây cao chừng 15 m, búp non, phủ lông mịn màu vàng, hoa nhỏ mọc thành chùm. Bồ đềcó hai loại: loại hoa trắnggọi là cánh kiến trắng, loại hoa vàng gọi là cánh kiến vàng. Loại cánh kiến hoa vàng thường mọc trên vùng sỏi sạn ở độ cao 300 - 700 m. Nhựa của nó vừa là loại thuốc quý, vừa để chế ra loại keo gắn kết rất chặt. Phải chăng vì những phẩm chất đó mà nhà thơ Chế Lan Viên so sánh Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng - một tình yêu đẹp được ươm mầm trong gian khổ, khó khăn và khăng khít keo sơn mãi mãi. Thứ ba, một trong những biểu hiện thường không thể thiếu và thường không thể giấu của học sinh giỏi Văn là rất giàu tình cảm và nhạy cảm trước mọi vấn đề, trước cuộc sống. Biểu hiện của những học sinh này là rất vui nhưng cũng dễ buồn trước những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và nhất là do sự tác động qua lời giảng của giáo viên. Thường đây là những học sinh sống tình cảm gần gũi với bạn bè, thầy cô, hay bộc lộ cảm xúc qua tình cảm và chiều sâu nội tâm, thông qua cách biểu hiện trực tiếp hay gián tiếp qua các bài viết. Thứ tư, học sinh giỏi Văn là học sinh có vốn tiếng Việt khá dồi dào, biết sử dụng chính xác chúng trong những trường hợp khác nhau. Thứ năm, chọn những học sinh có năng lực trình bày rõ ràng, chắc chắn qua bài làm văn. Văn các em này có thể còn hơi khô khan, viết chưa sinh động, vì không biết dùng từ ngữ, câu văn gợi cảm, có hình ảnh, nhưng đây cũng được coi là mảnh đất dễ cải tạo, nếu được thầy cô rèn giũa thêm thường có tiến bộ rất nhanh chóng. Lợi thế của dạng học sinh này là các em rất thích hợp với việc làm các bài tập, bài văn bình luận, kiểu bài đòi hỏi tính kỉ luật, lập luận chặt chẽ, khúc chiết hơn là lời văn giàu cảm xúc. Nếu gặp những đề bài loại này sở trường của các em thường được phát huy tốt. Thứ sáu, học sinh giỏi Văn được chọn phải là những học sinh có niềm say mê văn học, yêu thích môn Văn và có khát khao đạt giải học sinh giỏi Văn các cấp. Trong thực 16 https://tailieu.top/

  17. tế có khá nhiều học sinh dân tộc có tố chất học Văn tốt, có kĩ năng làm bài văn nghị luận khá vững vàng, nhưng các em lại coi môn Văn là môn phải học để thi chứ không thật say mê nó. Các em theo đuổi niềm say mê ở các môn học khác. Những học sinh này nếu đưa vào học đội tuyển thường lười làm bài tập và có thể sẵn sàng bỏ giữa chừng. Nếu cố ép đi thi, hiệu quả đạt điểm thường không cao. Thứ bảy, chọn học sinh đội tuyển Văn còn phải đặc biệt chú ý đến thái độ học tập nghiêm túc của các em. Phải chọn những em cần cù chăm chỉ, kiên trì học tập và kiên quyết đi thi đoạt giải. Đây là tố chất của ý chí nghị lực và là chìa khóa của sự thành công, đúng như một danh ngôn đã nói: “Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng ”. Trong thực tế đã từng có một số em học sinh có tố chất học Văn, rất say mê văn chương, rất khao khát đạt giải Văn, thế nhưng khi học đội tuyển Văn, ý thức học tập thiếu nghiêm túc, không chịu khó làm bài tập, ngại viết bài, ngại sửa lỗi … nên đạt kết quả không cao trong các kì thi. 1.2. Phương pháp chọn. Thứ nhất, cách tốt nhất là nên để các em tự bộc lộ mình qua kiểm tra, phát vấn, từ đó tìm ra sự tinh nhạy và lô gíc trong tư duy. Cho các em làm bài nhiều lần ở nhiều dạng đề ( cảm thụ văn học, bình luận văn học, đề tổng hợp, đề đối sánh…) để kiểm tra năng lực diễn đạt, khả năng sáng tạo và vốn kiến thức. Thứ hai,để việc lựa chọn mang tính chuẩn xác cao và không bị cách đánh giá chủ quan của mình chi phối thì nên tranh thủ sự đánh giá của đồng nghiệp bằng cách: đưa cho họ đọc các bài viết của các em hoặc nhờ ra đề và chấm. Sau đó đối chiếu kết quả đánh giá của mình với đồng nghiệp để có sự lựa chọn chính xác. 2. Việc trang bị kiến thức, kĩ năng cho học sinh trong đội tuyển học sinh văn 2.1. Lập hệ thống chương trình Việc đầu tiên của giáo viên luyện đội tuyển Văn trong một kì ôn thi học sinh giỏi là phải phải lập được hệ thống chương trình ôn tập phù hợp cho từng năm. Để học sinh 17 https://tailieu.top/

  18. ngay từ đầu ý thức được mình phải học gì, huy động tài liệu gì… Hệ thống chương trình ôn tập phải khoa học, chặt chẽ và phải toàn diện. Khi ôn tập song chương trình học sinh phải có khả năng xử lí tốt tất cả các đề bài, kể cả những đề bài không phải là sở trường của các em. Hết sức tránh lối ôn tủ theo kiểu “ được ăn cả, ngã về không ”. 2.2. Tạo cho học sinh một cái phông kiến thức sâu, rộng 2.2.1. Kiến thức về đời sống chính trị , xã hội: Người dạy cần cung cấp qua các bài dạy trên lớp, các buổi nói chuyện ngoài giờ học… Yêu cầu học sinh tự trang bị cho mình qua đọc báo, nghe đài, xem truyện hình, truy cập In tơ net … 2.2.2. Kiến thức về sách vở: Khi ôn luyện người thầy phải đi vào những kiến thức thiết thực, tạo lập cho bài giảng kiến thức phù hợp với tiến trình ôn tập và đối tượng học sinh dân tộc. Cần hết sức tránh lối dạy phô trương, dạy những kiến thức quá xa xôi, cao siêu, vì dạy như thế các em học sinh chỉ tỏ ra thích thú lúc đầu, sau sẽ dẫn đến chán chường. Trong những kiến thức cần trang bị thì việc coi trọng kiến thức sách giáo khoa là điều cực kì cần thiết. Học sinh đội tuyển phải hiểu sâu, rộng, nắm thật chắc, thậtnhuần nhuyễn kiến thức sách giáo khoa. Giáo viên phải coi dó kiến thức nền tảng không thể thiếu trong ôn luyện. Không được có thái độ coi thường cho rằng đó là kiến thức dễ hiểu, thông thường không cần mất thời gian cày xới. Nhưng cũng cần chú trọng bổ sung kiến thức ngoài sách giáo khoa để giúp hiểu sâu rộng hơn kiến thức trong sách giáo khoa phổ thông.Đặc biệt phải trang bị kiến thức chuyên sâu cho học sinh giỏi: Kiến thức về văn học sử, về các tác phẩm của các nhà văn.Ví dụ: Học Nam Cao học sinh phải biết thêm các tác phẩm khác của chính nhà văn như: Lang Rận, Dì Hảo, Sống mòn, Giăng sáng…Đồng thời phải biết thêm một số tác giả, tác phẩm khác của trào lưu văn học hiện thực phê phán như: Tắt đèncủa Ngô Tất Tố, Bước đường cùngcủa Nguyễn 18 https://tailieu.top/

  19. Công Hoan, Bỉ vỏcủa Nguyên Hồng…Không những thế còn phải biết thêm các tác giả hiện thực nước ngoài như Lỗ Tấn, Tsê khốp…để có điều kiện so sánh.Khi dạy về Hồ Chí Minh thì các học sinh giỏi không chỉ nắm được một trong những nét phong cách nổi bật của thơ nghệ thuật của người là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp cố điển và tinh thần hiện đại mà phải trả lời thật tốt câu hỏi: Thế nào là vẻ đẹp cổ điển, tinh thần hiện đại? Sự kết hợp hài hoà là ở chỗ nào? Vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại đã biểu hiện cụ thể như thế nào trong thơ Bác? Vì sao trong thơ Bác có vẻ đẹp ấy?... Tương tự như vậy khi dạy bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầuthế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945 một trong những yêu cầu quan trọng các em phải nắm được là văn học giai đoạn này được hiện đại hóa. Nếu đối với học sinh đại trà chỉ cần các em nhớ và công nhận, thì học sinh giỏi phải chứng minh và lí giải được điều đó. Dạy bài Tràng Giangcủa Huy Cận, đối tượng nào cũng cần phải nắm được: nỗi buồn, tâm trạng cô đơn, tình cảm gắn bó với cuộc đời và quê hương của nhà thơ thông qua bức tranh trời rộng, sông dài vừa có màu sắc cổ điển, vừa gần gũi thân thiết. Nhưng riêng đối với học sinh giỏi thì còn phải lí giải những điều đó: Vì sao Huy Cận buồn? Nỗi buồn đó nói lên điều gì? Tích cực hay tiêu cực? Có gì khác so với nỗi buồn của một số nhà thơ mới? Hay chất thơ mới ở bài thơ thể hiện qua những điểm nào?...Có dạy như vậy mới hi vọng : sau khi học xong Tràng Giangcác em không những nắm chắc bài thơ này mà còn ít nhiều biét phương pháp đọc một bài thơ mới. 2.2.3. Kiến thức lí luận văn học: Dạy về đặc trưng văn học, tư tưởng và phong cách nhà văn, mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và người đọc, tính nhân dân, tính đân tộc, tính hiện thực…Với loại kiến thức khó này hầu như giáo viên phải cung cấp cho các em là chính. Tuy nhiên người dạy phải biết tinh giản hoá, giản dị hoá cho dễ hiểu…Kiến thức lí luận có thể đến bằng con đường lí thuyết song phần đa nên qua các bài tập rèn luyện kĩ năng. Ví dụ: Để khắc sâu đặc trưng của thơ thì cho học sinh làm đề bài sau: 19 https://tailieu.top/

  20. Bình luận về câu nói: Thơ khởi phát từ trong lòng người ta hay hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần. Giáo viên nên chuẩn bị kiến thức thành các chuyên đề như tác gia Xuân Diệu Nam Cao, Tố Hữu, …để học sinh có được cái nhìn toàn diện về vấn đề. Đây cũng là cách khắc sâu, mở rộng và nâng cao kiến thức cho các em. 2.3. Yêu cầu đối với học sinh. Thứ nhất, ngoài kiến thức thầy dạy, giáo viên phải yêu cầu học sinh đội tuyển thường xuyên đọc sách tham khảo để bổ sung kiến thức, phải coi đó như là việc làm bài tập bắt buộc. Phải yêu cầu các em đọc đúng hệ thống tài liệu thầy đã cung cấp hoặc giới thiệu.Trong quá trình đọc sách học sinh phải ghi chép chọn lọc những kiến thức cần cho việc ôn luyện, làm các dạng đề bài trong hệ thống chương trình ôn tập. Hàng tuần, hàng tháng giáo viên phải kiểm tra việc đọc tài liệu của các em. Chỉ có như thế, việc đọc sách tham khảo của các em mới có hiệu quả thiết thực. Thứ hai, ngoài việc đọc sách tham khảo nhằm mở rộng kiến thức về tác giả, tác phẩm, học sinh cần đọc các sách lí luận văn học vì đây là khu vực các em còn trống nhiều. Đặc biệt các em cần đọc những bài văn mẫu, các bài văn chọn lọc, các bài văn đạt giải quốc gia để qua đó học cách mở bài, kết bài, cách diễn đạt, cách chuyển ý… để trong chừng mực nhất định có thể vận dụng được vào bài văn của mình. 3. Việc rèn luyện kĩ năngcho học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi Văn. 3.1. Cách lựa chọn hướng ra đề. Đây là là khâu quan trọng đầu tiên của quá trình phát hiện, kiểm tra, đánh giá và lựa chọn học sinh giỏi. Đề đúng và hay sẽ giúp phân hoá được trình độ học sinh, giúp người thầy nắm được điểm mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh, từ đó đánh giá khách quan, chính xác, công bằng năng lực, sự cố gắng vươn lên của học sinh, đồng thời tạo được niềm tin, sự hứng thú học tập cho các em khi hiểu được năng lực của mình. Ngược lại, đề thiếu chính xác, sáo mòn không những không đánh giá được chính xác năng lực của học sinh mà còn giảm hứng thú học Văn, 20 https://tailieu.top/

  21. tính độc lập, sáng tạo ở các em. Và hậu quả của nó là việc rèn kĩ năng trở nên vô nghĩa. Theo dõi hướng ra đề thi học sinh giỏi những năm qua, chúng tôi nhận thấy đề thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức về lí luận văn học và cảm thụ văn chương. Phạm vi thường xoay quanh những vấn đề cốt lõi của chương trình như: chức năng và đặc trưng của văn học nghệ thuật, phẩm chất của người nghệ sỹ, phong cách nhà văn…hoặc phân tích một tác phẩm văn học đặc sắc, có nhiều cách hiểu, hoặc phân tích một tác phẩm để làm nổi bật vấn đề nào đó liên quan đến phong cách tác giả…Nhìn chung tinh thần nhất quán của đề thi học sinh giỏi là theo sát chương trình. Từ nhận thức đó, trong quá trình ra đề, rèn luyện kĩ năng cho học sinh cần tập trung vào một số dạng đề cơ bản sau: * Đề kiểm tra khả năng cảm thụ văn học. Dạng đề này phải gắn với tác phẩm hay có trong chương trình. Ví dụ: Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạcủa nhà thơ Hàn Mặc Tử có nhiều cách hiểu khác nhau, anh - chị hãy phân tích bài thơ theo cách hiểu của mình. Qua dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức cơ bản của học sinh về tác phẩm: nắm hệ thống chi tiết, hình ảnh; hiểu khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm; năng lực chọn và cảm thụ tác phẩmnghệ thuật ở nhiều cấp độ khác nhau: chỉnh thể tác phẩm, hình tượng, chi tiết, hình ảnh, ngôn từ… *Đề kiểm tra kiến thức lí luận văn học kết hợp với cảm thụ tác phẩm văn chương. Dạng đề này yêu cầu học sinh bao quát được những vấn đề cơ bản của văn học và soi sáng nó vào những tác phẩm văn học cụ thể. Ví dụ: Nghệ thụât bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư(Lê Ngọc Trà). Qua bài thơ Sóngcủa Xuân Quỳnh hãy làm rõ ý kiến của Lê Ngọc Trà. 21 https://tailieu.top/

  22. Với dạng đề này có thể kiểm tra được những kiến thức về những vấn đề lí luận văn học cơ bản, đồng thời củng cố kiến thức về tác phẩm văn học, gắn lí luận văn học với việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Qua lí luận văn học, học sinh có căn cứ khoa học để hiểu sâu hơn tác phẩm và ngược lại, qua tác phẩm học sinh hiểu và biết khái quát thành những vấn đề lí luận cơ bản. *Đề rèn luyện kĩ năng so sánh văn học. Đây là một dạng khó, nhưng học sinh dễ có cơ hội phát huy năng khiếu và sở trường riêng của một học sinh giỏi. Nó đòi hỏi học sinh vừa nắm được những vấn đề cụ thể, chi tiết, vừa biết khái quát tổng hợp và lí giải vấn đề. Có thể so sánh tác phẩm cùng đề tài, cảm hứng trong một giai đoạn văn học, của một tác giả hoặc khác giai đoạn, khác tác giả… Ví dụ: Sắc thái nhân đạo riêng biệt trong tác phẩm Hai đứa trẻcủa nhà văn Thạch Lam và tác phẩm Vợ nhặtcủa nhà văn Kim Lân. * Dạng đề tổng hợp kiến thức. Ví dụ: Tình yêu quê hương, đất nước qua những tác phẩm đã học trong văn học 1945- 1975. Dạng đề này đòi hỏi học sinh nắm được các tác phẩm học trong chương trình, có khả năng tổng hợp chúng thành từng đề tài, biết xác định và khái quát thành các luận điểm chính trong mỗi nhóm tác phẩm, từ đó có khả năng đánh giá được đặc điểm của giai đoạn văn học. 3.2.Xác định đề. Đây là khâu rất quan trọng, bởi với một bài nghị luận nếu xác định sai yêu cầu của đề thì có hay mấy cũng không đạt. Muốn xác định đúng học sinh phải dành 3- 5 phút đọc đề, gạch chân những từ ngữ cần thiết, giải mã những từ ngữ đó, xem nội dung kiến thức cần huy động để làm bài thuộc phần nào? Chọn cách làm nào là tối ưu? Đối với học sinh giỏi một điều cần thiết nữa là phải nâng cao, mở rộng đề ra. Đồng thời dù đề thi có yêu cầu hay không, học sinh vẫn phải vận dụng 22 https://tailieu.top/

  23. nhiều thao tác khác nhau trong một bài làm, điều quan trọng là xác định thao tác nào là chính, thao tác nào là bổ trợ. Nắm được yêu cầu này, học sinh có cơ sở để xây dựng hệ thống luận điểm hợp lí và khoa học cho bài viết. Thông thường luận điểm chính của bài viết thường nằm ở những thao tác chính. Đây cũng là trọng tâm của bài viết. Những thao tác hỗ trợ thường gắn với ý phụ, ý bổ sung giúp cho nội dung bài viết hoàn chỉnh, trọn vẹn. 3.3.Rèn kĩ năng lập ý. Giáo viên cần chú trọng cho học sinh lập ý các đề bài làm văn tạo thành thói quen khi làm bài. Nhất là đối với học sinh giỏi người dân tộc thì yêu cầu này rất cần đề cao. Bởi vì một thực tế cho thấy khi viết văn học sinh dân tộc rất hay bị cảm xúc chi phối, dẫn đến sa đà vào một dòng cảm xúc nào đó mà quên mất sự hài hoà cân đối của kết cấu bài văn nghị luận. Điều đó dẫn đến lệch ý, lệch trọng tâm khi làm bài. Bước đầu tiên trong rèn kĩ năng lập ý là yêu cầu học sinh phải lập dàn ý sơ lược theo yêu cầu: •Đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong bài viết. •Xác định mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của mỗi luận điểm trong việc thể hiện các yêu cầu của bài. •Sắp xếp các luận điểm theo trình tự chặt chẽ, khoa học. Để giúp học sinh thực hiện các yêu cầu trên, nên hướng dẫn các em đặt hệ thống câu hỏi và tự trả lời: •Câu hỏi tìm luận điểm: Yêu cầu trọng tâm của đề là gì? Vấn đề cần giải quyết có thể triển khai ở những khía cạnh, phương diện nào? •Câu hỏi xác định quan hệ và vai trò của các luận điểm: Những khía cạnh, phương diện ấy quan hệ với nhau như thế nào? Phương diện nào thể hiện tập trung rõ nét các yêu cầu trọng tâm của đề? 23 https://tailieu.top/

  24. •Câu hỏi sắp xếp luận điểm: Các khía cạnh, nội dung nghị luận được trình bày như thế nào là tối ưu? Học sinh có thể lập ý theo một số gợi ý sau: •Đối với đề ở dạng chứng minh: học sinh phải xác định vấn đề cần chứng minh ở đây là gì? Để làm sáng tỏ điều đó cần phải có mấy ý lớn? Mỗi ý có bao nhiêu ý nhỏ? Để soi sáng cho ý nhỏ cần có những dẫn chứng nào? Số lượng dẫn chứng, chất lượng dẫn chứng cũng cần chú ý. •Ðối với dạng đề giải thích: học sinh phải lần lượt lập ý theo hệ thống câu hỏi: Nghĩa của khái niệm đó là gì? Nhận định, ý kiến, danh ngôn, châm ngôn…đó là gì? Vì sao lại nói như vậy? Muốn vậy ta phải làm gì? •Đối với dạng đề bình luận: Đây là dạng đề rất khó với học sinh và cũng rất khó với người dạy, tuy nhiên có thể tuân thủ các bước sau: Thứ nhất, giải thích vấn đề (nếu vấn đề ấy diễn đạt theo cách nói tu từ hoặc có những từ ngữ khó nên giải thích khái niệm trước khi giải thích ý nghĩa). Thứ hai, đề xuất nhận định nội dung, đặc điểm hiện tượng văn học được xét. Nếu là tác phẩm văn học thì nó viết cái gì? Viết như thế nào? Biểu hiện cái gì? Nếu là phong cách nghệ thì phong cách ấy có đặc điểm nào? Thứ ba, đề xuất nhận định đánh giá: Đánh giá ý nghĩa của hiện tượng hoặc vấn đề văn học nên đặt câu hỏi như: Hiện tượng ấy đáp ứng đòi hỏi gì của xã hội và thời đại? Tính chân thực và thẩm mĩ của nó đạt tới đâu? Nó góp phần và làm phong phú cho tâm hồn con người những gì? Nó đóng góp gì cho sự phát triển của văn học xét từ các mặt ngôn ngữ, thể loại, phong cách, kiểu sáng tác… Các kĩ năng này nếu dược rèn luyện ráo riết và nghiêm túc sẽ hình thành ở học sinh khả năng chủ động và độc lập tư duy trong học tập, khắc phục dần học sinh làm bài theo kiểu ngẫu hứng, nghĩ đến đâu viết đến đó. Tác dụng của khâu này là giúp các em khi đọc đề bài có thể nhanh chóng hình thành hệ thống luận điểm, định hướng kiến thức cho bài trong khoảng thời gian từ 15 –20 phút đầu, từ đó 24 https://tailieu.top/

  25. bài viết sẽ đủ ý, mạch lạc.Đây cũng là một trong biểu hiện của tính khoa học ở một bài văn học sinh giỏi. 3.4. Rèn kĩ năng viết văn. Đây cũng là khâu quan trọng, bởi nhận thức đề đúng, đề xuất luận điểm hợp lí, có kiến thức phong phú chưa đủ. Muốn có một bài văn hay, học sinh phải biết trình bày những hiểu biết, những rung động, suy nghĩ của mình một cách mạch lạc, sáng sủa và có sức thuyết phục. Điều này phụ thuộc vào cách viết văn của học sinh. Bởi vậy học sinh cũng cần được rèn kĩ năng viết văn. Có thể tiến hành theo các bước sau đây: Thứ nhất, trước hết rèn cho học sinh viết cho đúng, cho đủ.Viết đúng là bám sát đề, viết đủ là giải quyết hết các yêu cầu của đề ra. Muốn vậy học sinh phải thuần thục kĩ năng phân tích đề như đã nói ở trên. Thứ hai, viết cho hay (riêng phần nàycần phải rèn từng khâu). 3.4.1. Rèn kĩ năng mở bài. Không phải không có lí khi có ý kiến cho rằng: văn hay chỉ cần đọc mở bài. Tất nhiên nếu chỉ đọc mở bài sẽ không đánh giá được toàn bộ bài văn, nhưng quả thật khi có được mở bài hay, tự nhiên dòng văn như khơi chảy tuôn trào. Mở bài lúng túng sẽ khiến bài viết mất cảm hứng, văn phong không liền mạch, ý tứ sẽ trở nên rời rạc. Hơn nữa học sinh thường mất nhiều thời gian vào khâu mở bài, còn phần sau thường sơ sài, nhất là kết luận chỉ vài ba câu qua quýt. Vì vậy cần luyện tập mở bài thường xuyên, đỡ mất nhiều thời gian mà mở bài vẫn hay và hấp dẫn. Muốn mở bài hay trước hết phải xác định được nhiệm vụ của mở bài: giới thiệu vấn đề cần nghị luận, gợi sự hấp dẫn, cuốn hút với người đọc. * Phải nắm được các cách mở bài: Khi mở bài thực chất là trả lời câu hỏi: vấn đề cần bàn bạc là gì? Trả lời thẳng câu hỏi ấy gọi là mở bài trực tiếp. Từ một ý kiến khác dẫn dắt vào yêu cầu của đề gọi là mở bài gián tiếp. Trong thực tế để bài 25 https://tailieu.top/

  26. có chất văn người ta thường mở gián tiếp. Có nhiều cách mở gián tiếp, tựu trung có bốn cách cơ bản: diễn dịch, quy nạp, tương liên, tương phản. Thứ nhất: Diễn dịch ( nêu một ý khái quát hơn vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới bắt vào vấn đề ấy). Ví dụ: Đề bài : Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiếncủa nhà thơ Quang Dũng Mở bài: Viết về người lính Việt Nam trong cuộc kháng chiến của dân tộc là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn. Chúng ta đã từng biết đến những hình tượng bất hủ trong các bài thơ Đồng chícủa Chính Hữu, Nhớcủa Hồng Nguyên, Lên Cấm Sơncủa Thôi Hữu…Và trong mạch nguồn ấy không thể không kể đến các chàng trai ngang tàng lẫm liệt, hào hoa phong nhã trong bài thơ Tây Tiếncủa Quang Dũng- những con người tiêu biểu của một thời một đi không trở lại. Thứ hai: Quy nạp (nêu lên những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra trong đề bài rồi tổng hợp lai thành vấn đề cần nghị luận). Ví dụ: Đề bài: Về một tác phẩm văn học gợi cảm nghĩ sâu sắc trước những vấn đề tu dưỡng và rèn luyện của tuổi trẻ . Mở bài: Không hiểu sao tôi yêu”màu đỏ” ấy đến thế. Cái màu đỏ chói chang, rực rỡ, cái màu đỏ đằm thắm, dịu dàng, cái màu đỏ “ như cái màu đỏ ấy ” trong Cuộc chia li màu đỏcủa Nguyễn Mĩ –nhà thơ quá cố. Trong cuộc sống có biết bao điều ta nâng niu quý trọng, yêu mến. Bạn rất yêu bức phù điêu tạc chân dung một vị thần công lí, còn người khác lại rung động bởi nét nhạc dịu nhẹ thiết tha của Soopanh, và người thứ ba lại yêu cánh rừng xào xạc như hiện ra trước mắt trong “Mùa thu vàng” của Lê vi tan…Nhưng có lẽ riêng tôi, cái mà tôi yêu nhất đó là những vần thơ có” cái màu đỏ ấy” … Tôi muốn các bạn cùng tôi yêu bài thơ ấy và màu đỏ ấy. 26 https://tailieu.top/

  27. Thứ ba: Tương liên ( Nêu lên một ý giống như trong đề bài rồi bắt sang vấn đề cần nghị luận. Ý được nêu ra trước thường là những câu châm ngôn, danh ngôn, tục ngữ hoặc những chân lí nổi tiếng). Ví dụ: Đề bài: Bình luận câu nói của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng: “ Nghệ thuật phải bắt nguồn từ đời sống, thoát li đời sống nghề thuật nhất định sẽ khô héo”. Mở bài: Thần thoại Hi Lạp còn để lại một câu chuyện đầy cảm động về chàng lực sĩ Ăng tê và đất mẹ. Thần Ăng tê sẽ bất khả chiến bại khi chân chàng gắn chặt vào đất mẹ Gaia. Có thể ví mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống hệt như quan hệ giữa Ăng tê và đất mẹ vậy. Chưa tin ư, bạn cứ giở các tác phẩm văn học lớn mà xem. Thứ tư: Tương phản (Nêu lên một ý trái ngược với ý trong đề bài rồi từ đó chuyển sang vấn đề nghị luận). Ví dụ: Đề bài: Vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tùcủa Nguyễn Tuân. Mở bài: Đối với giai cấp thống trị, Cao Bá Quát là quân phản ngịch, quân giặc cỏ, nhưng đối với nhân dân, ông là một con người có khí phách tài hoa. Từ nguyên mẫu ấy nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật Huấn Cao một hình ảnh đẹp trong tác phẩm Chữ người tử tù. Chia ra bốn cách ấy để học sinh có ý thức phân loại và thực hành rèn luyện cho có bài bản. Song cũng có thể kết hợp các kiểu mở bài thành một kiểu hỗn hợp. * Cũng cần xác định bố cục của mở bài: Mở bài là một đoạn văn hoàn chỉnh, đoạn văn ấy cũng có ba phần: mở đầu đoạn, phần giữa đoạn, phần kết đoạn. •Mở đầu đoạn: Viết những câu dẫn dắt là những câu liên quan gần gũi với vấn đề chính sẽ nêu. Tuỳ từng nội dung vấn đề chính mà lựa chọn những câu dẫn dắt có thể là một câu thơ, một câu danh ngôn hoặc một câu chuyện kể. 27 https://tailieu.top/

  28. •Phần giữa đoạn: Nêu vấn đề chính sẽ bàn trong thân bài. Vấn đề này có thể đã được chỉ rõ, hoặc có thể tự người viết khái quát ra. đối với loại đề phân tích, cảm thụ tác phẩm nghệ thuật thì nêu ấn tượng chủ đạo bao trùm toàn bộ tác phẩm mà người viết cảm nhận được. •Phần kết đoạn: Nêu phương thức nghị luận và phạm vi tư liệu sẽ trình bày. Ví dụ: Đề bài: Phân tích bài thơ Ông Đồcủa Vũ Đình Liên. Mở bài: Tôi nhớ mãi câu nói của hoạ sĩ Hà Lan Van Gốc: “Không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người”.Đó là chân lí của cuộc sống cũng là chân lí của thơ ca. Cho đến khi đọc những dòng thơ giản dị chân thành của Vũ Đình Liên, tôi lại càng cảm nhận sâu sắc hơn bao giờ cái chân lí vĩnh cửu xanh tươi ấy: Mỗi năm hoa đào nở …Hồn ở đâu bây giờ. (Ông Đồ) Câu1-2 là phần mở đoạn, câu 3 vừa dẫn dắt vào vấn đề vừa giới thiệu phạm vi kiến thức cần làm. * Một số yêu cầu của mở bài: •Tránh dẫn dắt vòng vo quá xa mãi mới bắt vào vấn đề cần nghị luận. •Tránh ý dẫn dắt ý không liên quan đến vấn đề nghị luận. •Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, sau đó lại lặp lại ở thân bài. •Một mở bài hay cần phải: ngắn gọn, đầy đủ, độc đáo, gây được ấn tượng với người đọc, những câu dẫn dắt phải tạo được bất ngờ. Đồng thời mở bài cũng phải tự nhiên, tránh vụng về gượng ép. Ví dụ: Đề bài: Phân tích bài thơ Mùa xuân chíncủa Hàn Mặc Tử Mở bài: Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luân chuyển. Con người cũng chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. 28 https://tailieu.top/

  29. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực… thì vẫn còn mãi với thời gian. Trước khi chết vua Phổ cầm tay Môda nói: “ Ta tiêu biểu cho trật tự, ngươi tiêu biểu cho cái đẹp. Biết đâu hậu thế sẽ quên ta mà nhắc đến ngươi”. Có lẽ mãi mãi về sau, chúng ta vẫn gặp lại một Mùa thu vàngtrong Lê vi tan, một mùa thu thôn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến và một Mùa xuân chíntrong thơ Hàn Mặc Tử, một mùa xuân tràn đầy sức sống vui tươi mà không ồn ào, thắm đượm sắc màu mà không sặc sỡ, một mùa xuân duyên dáng mà rất Việt Nam. Đây là mở bài độc đáo, ấn tượng, cuốn hút, bất ngờ. Người viết dẫn dắt từ quy luật của thời gian, đời người đến cái chết của vua Phổ rồi đột ngột dẫn vào bài Mùa xuân chíncũng rất tự nhiên, từ đó khơi gợi cảm xúc ở người đọc. Muốn mở bài thành thạo và cho hay, điều quyết định vẫn là luyện tập nhiều. Cùng làm một đề văn nhưng yêu cầu học sinh suy nghĩ và viết nhiều mở bài khác nhau. Các mở bài khác nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt, phần giữa và phần cuối mở bài thường không mấy thay đổi. Chỉ cần phần dẫn dắt hấp dẫn, có hơi văn riêng, có giọng điệu riêng, độc đáo là mở bài sẽ mới lạ Ví dụ: Đề bài: Nhà văn Bêlinxki viết: Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi haytrả lời những câu hỏi đó. Bằng hiểu biết về văn học, anh - chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên. Mở bài 1: Có ai yêu một loài hoa không hương không sắc; có ai yêu cánh chim bay không gửi lại cuộc đời tiếng hót ngọt ngào, đắm say; và có ai yêu những áng văn chương nghệ thuật ép khô trong xác chữ vô cảm. Bởi tư tưởng tình cảm là tư tưởng của tác phẩm, cũng như hương sắc, tiếng ca là linh hồn của nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải tiếng thết khổ 29 https://tailieu.top/

  30. đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi đó”. Mở bài 2: Dostoevski khi lí giải động lực khiến mình cầm bút đã nói rằng: Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ.Còn Tagor mong muốn sau khi từ giã cõi đời được nhắn nhủ lại mộtlời: Tôi đã từng yêu. Có phải bởi những nhà văn, nhà thơ vĩ đại- những con người đã sống, đã yêu, sống hết mình và yêu hết mình với cuộc đời với con người bởi họ đã thấm thía sâu sắc rằng: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi đó”. Mở bài 3: Như con ong hút ngàn vạn nhuỵ hoa mới tạo thành giọt mật, con trai chịu bao đau đớn, xót lòng vì hạt bụi bặm biển khơi để tạo thành viên ngọc tròn trặn ánh ngời, sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ cũng là một công việc cực nhọc và vô cùng gian khổ. Nghệ nhân điêu khắc không thể cứ nhìn nguyên mẫu rồi mô phỏng lại trên chất liệu mình đã chọn, người hoạ sĩ không thể chỉ quan sát đời sống để rồi tái hiện lại bằng những đường nét, màu sắc vô cảm, vô hồn và đặc biệt nhà văn không thể chỉ dùng vốn ngôn ngữ của mình như một trò chơi “du hí”, ghi lại những cảnh “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”…Bởi vì “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết…những câu hỏi đó”. 3.4.2. Rèn kĩ năng kết bài. Kết bài cũng là một khâu vô cùng quan trọng của bài văn. Nếu như mở bài tạo sự cuốn hút ở người đọc thì kết bài sẽ phải tạo được dư ba sâu lắng, người đọc đã đọc hết mà vẫn bị ám ảnh bởi bài văn. 30 https://tailieu.top/

  31. * Để có kết bài hay trước hết cũng cần nắm được nhiệm vụ của kết bài: thông báo sự kết thúc của việc trình bày vấn đề, nêu đánh giá khái quát của người viết về những khía cạnh nổi bật nhất của vấn đề; gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn. * Nắm được các cách kết bài cơ bản: Tóm lược, phát triển, vận dụng, liên tưởng, điểm nhãn, đầu cuối tương ứng. Tóm lược: tóm tắt quan điểm của người viết ở phần thân bài. Ví dụ: Phân tích bài thơ Mùa xuân chíncủa Hàn Mặc Tử. Kết bài: Cả bài thơ là một bức tranh sống động, có màu sắc, có âm thanh rộn rã, có con người, có giàn thiên lí, thoáng có bóng trúc tre. Đúng là một bức tranh mùa xuân thanh bình và đẹp đẽ đến nỗi làm cho nhà thơ yêu đời một cách đắm say. Cảm nhận được tấm lòng yêu đời của Hàn Mặc Tử bao nhiêu, ta lại càng cảm thông và xót thương cho số phận nhà thơ bấy nhiêu. Ông đã phải vĩnh biệt cuộc đời khi tài năng đang chín, nhưng thơ ca của ông vẫn còn đó, thời gian không những không làm phai mờ, mà trái lại đấy chính là chất xúc tác để Mùa xuân chín của ông trở thành kiệt tác bất hủ. Phát triển: Là cách kết bài mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong đề bài. Ví dụ: Đề bài: Hình tượng Tổ quốc trong thơ ca Cách mạng tháng Tám. Kết bài: Trong giai đoạn mới chúng ta vừaxây dựng chủ nghĩa xã hội vừabảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên đất nước đã hoàn toàn thống nhất, Tổ quốc vẫn là một mảng đề tài quan trọng. Chúng ta mơ ước có những bài thơ hay viết về Tổ quốc, vừa cao đẹp, vừa gần gũi, vừa giàu tính chiến đấu lại vừa hết sức thân tình, thâu tóm được những gì đã qua, nói về những ngày đang sống, vừa hướng chúng ta tới tương lai của tổ quốc…Bởi vì nói như Pauxtopxki “niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người đến cái đẹp, của người biết đi tới tương lai…” Chúng ta có quyền hi vọng và chờ đợi ở các nhà thơ của chúng ta. Vận dụng: là cách kết bài nêu ra phương hướng áp dụng cái tốt, cái hay hoặc khắc phục cái xấu, cái dở của vấn đề vào cuộc sống. 31 https://tailieu.top/

  32. Ví dụ: Đề bài: Phân tích bài thơ Ông Đồcủa Vũ Đình Liên . Kết bài: Ông Đồcủa Vũ Đình Liên quả là một giọt nước trong biển cả, là một nét đơn sơ nhỏ bé trước bao thành tựu lớn lao của văn học thế giới và văn học nước nhà. Nhưng dẫu hoà trong một biển, giọt nước Vũ Đình Liên vẫn mặn mà nồng thắm, vẫn âm vang nhịp đập thuỷ triều…Bài thơ nói về số phận con người, bài thơ nhắc nhở chúng ta trong công cuộc đổi thay to lớn ngày nay, hãy giữ gìn con người, giữ gìn tình thương và những giá trị đẹp đẽ của con người để không bao giờ phải xót xa và luyến tiếc. Liên tưởng: là cách kết bài mượn ý tương tự ở dân gian, của một người có uy tín hay của sách để thay cho lời tóm tắt của người làm bài. Ví dụ: Đề bài: Về bài thơ Ngắm trăngcủa Hồ Chí Minh. Kết bài: Tìm hiểu bài thơ Ngắm trăngcủa Hồ Chí Minh, chúng ta có thể hoàn toàn chia sẻ với cảm xúc chân thành của nhà thơ Tố Hữu khi viết về những ngày Bác bị giam cầm: Lại thương nỗi đoạ đày thân Bác Mười bốn trăng tê tái gông cùm Ôi chân yếu mắt mờ, tóc bạc Mà thơ bay cánh hạc ung dung. Điểm nhãn: Đây là câu chuyện điểm nhãn cho Rồng theo nguyên tắc hội hoạ phương Đông. Người hoạ sĩ vẽ đúng người xem vẫn nhận ra đây là con Rồng, song khi ông ta điểm nhãn thì con Rồng sống động hẳn lên. Viết văn cũng vậy, nếu biết lựa chọn từ ngữ, hình ảnh hay, có được giọng văn truyền cảm, thì đó không chỉ là bài văn đúng mà còn là bài văn hay, có hồn, truyền cảm, hấp dẫn người đọc. Ví dụ: Cùng kết bài cho bài thơ Ông Đồcủa Vũ Đình Liên, có hai cách kết sau: 32 https://tailieu.top/

  33. Kết bài 1: Cùng với các nhà thơ khác trong phong trào thơ mới, Vũ Đình Liên và bài thơ Ông Đồcủa mình đã đóng góp một giọng điệu thơ mới mẻ, đầy khởi sắc, đóng góp cho đời một cách nhận thức, cách hiểu biết, và một thái độ, một nhân sinh quan mới mẻ, mang giá trị nhân đạo và ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Kết bài 2: Ông Đồcủa Vũ Đình Liên quả là một giọt nước trong biển cả, là một nét đơn sơ nhỏ bé trước bao thành tựu lớn lao của văn học thế giới và văn học nước nhà. Nhưng dẫu hoà trong một biển, giọt nước của nhà thơ Vũ Đình Liên vẫn mặn mà nồng thắm, vẫn âm vang nhịp đập thuỷ triều…Bài thơ nói về số phận con người, bài thơ nhắc nhở ta trong cuộc đời đổi thay to lớn ngày nay, hãy gìn giữ con người, giữ gìn tình thương và những giá trị đẹp đẽ của con người để không bao giờ phải xót xa, luyến tiếc. Kết bài một chỉ đúng, nhưng kết bài hai người viết đã điểm nhãn cho lời văn của mình bằng cách dùng những từ ngữ, hình ảnh rất hay: “ giọt nước trong biển cả” “ nét đơn sơ, bé nhỏ” “ mặn mà nồng thắm, âm vang nhịp đập thuỷ triều” cùng với lời văn giàu cảm xúc “ không bao giờ phải xót xa, luyến tiếc”. Kết bài theo lối “đầu cuối tương ứng”: kết bài ứng với mở bài, láy lại mở bài mà không rơi vào lặp lại nguyên văn vì nó là sự luyến láy để nâng cao, để khẳng định những cảm nhận của mình. Ví dụ: Đề bài: Lá đỏmột bài thơ đáng yêu, đáng nhớ. Mở bài: Từ hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mĩ đã đi qua cách đây mười năm, vẫn còn lưu lại đậm trong tâm trí người đọc những dòng thơ của một thời lửa cháy, của những tháng năm không thể nào quên. Làm sao không nhớ, không yêu một bài thơ như thế này: ( Trích bài thơ Lá đỏ) 33 https://tailieu.top/

  34. Kết bài: Thơ hay là thứ thơ làm cho người ta nghĩ đến tình người, nghĩ đến sự sống…Thơ nói riêng, cũng như văn học nói chung trở thành cần thiết cho con người là vì như vậy. Làm sao không nhớ, không yêu một bài thơ như bài Lá đỏ. Trong các kết bài này đều chung một điểm nhất định: đúng, sáng tạo, gây ấn tượng, vừa đóng lại, vừa mở ra, nâng cao và cứ ngân nga mãi trong lòng người đọc. * Yêu cầu của kết bài: Thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài. Chỉ nêu những ý khái quát, có tính tổng kết, đánh giá. Không lan man, không lặp lại những gì đã trình bày ở thân bài. Cũng giống như mở bài, kết bài cũng phải được luyện viết nhiều, làm sao trở thành kĩ năng nhuần nhuyễn để trước bất cứ bài văn nào, học sinh sẽ không nặng nề, mà chọn được cách kết ngay, vừa đúng, vừa hay. 3.4.3. Rèn kĩ năng viết câu, đoạn chuyển tiếp. Như chúng ta đã biết, một bài văn là một thể thống nhất hoàn chỉnh, được tạo nên bởi các phần, các đoạn, các câu. Giữa các phần này có thể tự thân nó có sự kết dính vì chúng chung một nội dung, chủ đề…Nhưng có nhưng phần, những đoạn tự thân không kết dính thì chúng ta phải sử dụng các phương tiện chuyển tiếp. Một thực tế cho thấy, nhiều học sinh kĩ năng chuyển câu, chuyển ý, chuyển đoạn rất kém, bài văn rời rạc, chắp nối vụng về, nghĩa là bài văn bị phá vỡ. Vì vậy không thể không rèn luyện kĩ năng viết câu đoạn chuyển tiếp. Đối với học sinh giỏi văn thì điều này càng quan trọng và cần thiết hơn. Không thể có một bài văn giỏi mà mối quan hệ nội dung, hình thức lại kém khiến bài viết không nhuần nhuyễn, không mượt mà, không để lại ấn tượng sâu sắc. Muốn làm tốt khâu này học sinh cần nắm được: 34 https://tailieu.top/

  35. * Vị trí cần có sự chuyển tiếp trong bài văn: Giữa các phần trong bố cục ba phần của bài văn. Giữa các đoạn ý và đoạn ý, giữa trình bày luận điểm, lập luận với luận cứ. * Các cách chuyển tiếp: Thứ nhất, dùng các kết từ hoặc các từ ngữ tương đương với kết từ: Để nối các đoạn có quan hệ thứ tự với nhau: trước tiên, trước hết, tiếp theo, sau đó, một là, hai là, cuối cùng, sau cùng… Để nối các đoạn có quan hệ song song: một mặt, mặt khác, ngoài ra, bên cạnh đó, đồng thời… Để nối các đoạn có quan hệ tương đồng: tương tự, cũng thế, cũng vậy, cũng giống như trên… Để nối các đoạn có quan hệ tăng tiến: vả lại, hơn nữa, thậm chí… Để nối các đoạn quan hệ nhân quả: bởi vậy, bởi thế, cho nên, vì lí do trên… Để nối các đoạn có quan hệ tương phản: nhưng, song, tuy nhiên, tuy thế, tuy vậy, thế mà, thế nhưng, trái lại, ngược lại… Để nối một đoạn có ý nghĩa tổng kết với các đoạn trước: tóm lại, nói tóm lại, tổng kết lại, như vậy là, có thể nói… Thứ hai, dùng câu chuyển đoạn: Chêm vào mạch văn những câu thông báo trực tiếp về ý định chuyển đoạn của người viết: Ví dụ: Ở trên chúng ta đã bàn về các nhà văn hiện thực, nếu như các nhà văn hiện thực phê phán muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời như Vũ Trọng Phụng từng tuyên ngôn thì các nhà văn lãng mạn chủ trương thoát ra khỏi hiện thực…Và bây giờ chúng ta cùng đi tìm hiểu về các nhà văn này. Chuyển đoạn bằng những câu nối kết ý một cách tự nhiên. Ví dụ: “Ca dao yêu thiên nhiên, nhưng yêu nhất là con người. Chúng ta không thể nào kể hết những câu hát nói về tình yêu của dân chúng… 35 https://tailieu.top/

  36. … Nhưng đã yêu là phải nhớ. Người dân ta nhớ như thế nào?... … Nhớ nghĩa là buồn. Người Việt Nam ta buồn như thế nào?...” Sau dấu ba chấm thứ nhất là những câu ca dao về tình yêu. Sau dấu ba chấm thứ ba là nỗi nhớ trong ca dao về tình yêu. Sau dấu ba chấm cuối cùng là nỗi buồn trong ca dao tình yêu. Đây là cách chuyển ý khiến bài văn tự nhiên, trôi chảy đi vào lòng người đọc nhẹ nhàng, tinh tế. Thứ ba, trên đây là một số cách chuyển tiếp cơ bản, có thể nói cách chuyển tiếp vô cùng phong phú, học sinh cần phải có sự lựa chọn phù hợp với nội dung bài viết, để bài văn vừa mạch lạc, vừa lưu loát. Muốn như vậy thì việc luyên tập cũng cân công phu. Có thể luyện tập như thế này: Học thuộc các cách chuyển tiếp cơ bản. Xác định sự chuyển tiếp trong các bài văn nghị luận, phân tích cách chuyển tiếp trong đó để học tập: Tại sao người ta lại chuyển tiếp như vậy? Cách chuyển tiếp ấy có hay không? Hay ở chỗ nào? Tìm các cách chuyển tiếp khác, so sánh, đối chiếu để chọn cách hay nhất. Tập tìm cách chuyển tiếp khác nhau trong khi luyện viết văn. Tập đánh giá, nhận xét sửa chữa cách chuyển tiếp của nhau. 3.4.4. Các yêu cầu diễn ý và hành văn hay. Sau khi đã có ý, thì người viết phải biết diễn đạt thành lời văn cụ thể. Muốn diễn ý hay, cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, sau đây là một số yếu tố cơ bản: * Giọng văn và sự thay đổi giọng văn: Trong bài văn, người viết bao giờ cũng thể hiện tư tưởng, quan điểm của mình qua giọng văn nào đó, tán thành hay ngợi ca hay phê phán…Tuy nhiên để bài viết không đều đều, đơn điệu thì cần phải thay đổi giọng điệu một cách linh hoạt. Trước hết, cần thay đổi đại từ nhân xưng trong bài viết: xưng Tôi, chúng tôi, chúng ta… 36 https://tailieu.top/

  37. Thứ hai: khi gọi tác giả, gọi nhân vật cần xác định một đại từ phù hợp, tránh lặp lại đơn điệu: Với tác giả: gọi tác giả, nhà thơ, nhà văn, thi sĩ, người nghệ sĩ, ông(bà), anh(chị) hoặc có thể gọi tên… Nhưng cần lưu ý khi gọi tác giả là ông- bà, anh- chị thì phải xác định được lứa tuổi rồi, tránh gọi không phù hợp.Với nhân vật cũng vậy: gọi nhân vật, gọi tên, gọi theo một đặc điểm nào đó của nhân vật…Ví dụ: Phân tích về nhân vật Tnu : gọi tên, anh, người con của núi rừng Tây Nguyên, người con của Xô Man…) Thứ ba: Các tiểu từ cũng nên sử dụng trong bài viết: vâng, đúng thế, không, như vậy, như thế…để tạo ấn tượng như người viết đang tranh luận, đối thoại trực tiếp với người đọc. Thứ tư: Thay đổi các thao tác tư duy: phân tích trước, dẫn chứng sau, hoặc ngược lại, hoặc lồng dẫn chứng vào lời văn, khi liên hệ, khi so sánh… cũng là để bài viết phong phú, sinh động. * Dùng từ độc đáo. Viết bài văn nghị luận muốn hay thì phải dùng được những từ hay, đoạn hay. Dùng từ hay là một trong những yếu tố quyết định để có cách diễn đạt hay, làm người đọc thấy thích thú. Từ ngữ hay là được dùng linh hoạt đúng lúc, đúng chỗ, lột tả được thần thái của sự vật, sự việc.. Muốn thế người viết phải tích luỹ cho mình được vốn từ ngữ phong phú, mặt khác phải có ý thức sử dụng khi viết. Nhưng khi sử dụng cần lưu ý: phải hiểu nghĩa của từ, dùng đúng văn cảnh, vì nếu không sẽ rơi vào sáo rỗng, khoe chữ. Một trong những cách để giúp học sinh biết dùng từ hay đó là phải đọc nhiều những bài văn hay, các tác phẩm văn học hay, ghi chép lại những từ sắc sảo, độc đáo, có hình ảnh, giàu cảm xúc, những câu văn đẹp, như ghim vào trí óc người đọc. Tìm hiểu tại sao trong văn cảnh ấy chọn từ ấy là rất hay, rất phù hợp. Ví dụ: Về khổ thơ cuối trong bài thơ Ông Đồcủa Vũ Đình Liên. 37 https://tailieu.top/

  38. Khổ thơ kết thúc có vẻ như tàn nhẫn. Dù vắng đến không ai haynhưng ông đồ vẫn kiên nhẫn ngồi chờ bên con đường khách vô tình qua lại. Năm nay lại một mùa đào nở, nhưng hình ảnh ông đồ già viết câu đối không còn nữa. Thế là một cái nghề, cái nghề làm giàu tâm hồn con người, cái nghề làm đẹp cho dân tộc không còn nữa. Chẳng còn ai cần đến đôi tay tài hoa và những nét bút phượng múa rồng baycủa ông nữa. người ta không còn tấm tắc khen những câu đối đẹp mà chẳng làm ra những giá trị thực tế, chẳng còn thời gian để lòng mình rung động trước hình ảnh cổ xưa thiêng liêng dù đơn giản. Và sự vắng mặt của ông đồ chắc chỉ kịp lưu tâm vào người khác: “Tội nghiệp, chắc ông cụ mất rồi” và chút lòng trắc ẩn ấy “chưa nồng trên má đã phôi pha”. Câu thơ có cái gì lưu luyến, đậm đà, không chỉ thế mà còn buồn đau: Không thấy ông đồ xưa. Liệu có bao nhiêu người như nhà thơ còn nhớ đến ông đồ già mỗi năm xuất hiện vào lúc hoa đào nở? Ta thấy tấm lòng nhà thơ thật đáng quý, đáng quý giữa bao tấm lòng nguội lạnh, thờ ơ trước những gì cao quý, thiêng liêng dù nhỏ nhặt của cuộc sống. Nỗi buồn của tác giả lắng đọng trong mỗi câu thơ, nó khác hẳn những câu thơ trơn tru, êm đềm của một kí ức đẹp ở những câu thơ đầu, nó trĩu xuống u buồn. Cái bồi hồi đã trở thành xót xa: Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ? Cứ đọc kĩ mà xem, sẽ thấy cái xót xa thấm đượm trong câu thơ cuối. Những người muôn năm cũ là những tâm hồn đẹp, thanh cao bên câu đối đỏ của ông đồ hay những ông đồ trên phố phường Hà Nội xưa? Tôi nghĩ là cả hai. Thắc mắc của tác giả rất có lí, và chính vì có lí nên nó thật tàn nhẫn và đau xót. Những cái đẹp cao quý và sâu kín, cái đẹp của hồn người Hà Nội, cái đẹp của hồn Việt Nam cứ ngày càng mai một, càng bị cuộc sống với những quy tắc rất thực tế lấn át, chà đạp và xô đẩy, để rồi biến mất như ông đồ già kia, và có lẽ sẽ mãi mãi không còn nếu như không có những Vũ Đình Liên đáng cảm phục. Hồn ở đâu bây giờ? Câu 38 https://tailieu.top/

  39. hỏi ấy là tiếng chuông cảnh tỉnh người đọc mọi thế hệ, mọi thời đại, thức dậy những gì sâu xa đã bị lãng quên, chôn vùi dưới cuộc sống ồn ào, náo nhiệt. Làm sao để khôi phục cái hồn cho cả dân tộc, đó là điều nhà thơ Vũ Đình Liên muốn nhắn gửi tới chúng ta. Trong đoạn văn này những câu từ: khách vô tình qua lại, hình ảnh cổ xưa thiêng liêng, chút lòng trắc ẩn, tấm lòng nguội lạnh thờ ơ, tiếng chuông cảnh tỉnh…là những câu từ rất hay, giàu giá trị biểu cảm, nó khiến đoạn văn thực sự rung cảm, ám ảnh người đọc. * Viết câu linh hoạt. Trong ngữ pháp tiếng Việt chúng ta, có rất nhiều loại câu, phân chia theo nhiều tiêu chí: câu ngắn, câu dài, câu cảm thán, câu nghi vấn, câu khẳng định, câu phủ định…Khi viết văn, để lời văn linh hoạt, cuốn hút, tránh sự tẻ nhạt thì người viết cũng cần sử dụng linh hoạt các kiểu câu, miễn sao phù hợp và thể hiện hiệu quả nội dung cần diễn đạt. Ví dụ khi diễn tả tình cảm, thái độ của mình thì trực tiếp dùng câu cảm thán. Khi muốn gây sự chú ý thì dùng câu nghi vấn. Câu nghi vấn là cách đặt ra vấn đề gây chú ý ở người đọc, rồi sau đó tự trả lời, tự làm sáng tỏ. Khi muốn nhấn mạnh một ý nào đó và vế đó nằm ở vế thứ hai thì dùng loại câu có hai mệnh đề hô ứng: Tuy…nhưng, Càng…càng, Không những…mà còn…Tóm lại căn cứ vào nội dung, ý đồ của người viết mà kết hợp các kiểu câu cho phù hợp. Ví dụ: Giới thiệu về Tuyển tập Nguyễn Bính. Cái làng Thiện Vịnh trong thơ Nguyễn Bính cũng chỉ là môt bóng mơ. Làng Thiện Vịnh thật có giữa vùng chiêm khê mùa thối đất Nam Định, Thái Bình, đâu đâu cũng xơ xác nước trắng đồng, gió lùa sóng đồng cờn lên, quằn lại, lật thuyền mảng, cả đến người ra cứu lúa cũng chết đuối. Mỗi năm, mỗi mùa biết bao người đã bỏ làng đi tha phương. Nhà thơ bó gối nhìn vào trong đêm. Chỉ nghĩ lại cũng đã se lòng. Nhà thơ tưởng tượng trên những khổ cực ấy, phấp phới những lứa tuổi 39 https://tailieu.top/

  40. đương tơ, hoa cải vàng tháng chạp, mưa dây, mưa dợ, trăng rằm sáng như ban ngày và những đêm chèo hát… Thơ là niềm khao khát là ước nguyện của con người. Khi chưa quen Nguyễn Bính, tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê của Nguyễn Bính, và cũng chưa phân biệt được đâu là chút lòng mộc mạc thiết tha của người làm thơ, đâu là cái hoa hoè, hoa sói của chàng trai quê ra tỉnh. Phân tích cách sử dụng các kiểu câu trong bài viết: Đoạn trích chủ yếu sử dụng kiểu câu miêu tả với những từ ngữ, hình ảnh giàu tính hình tượng. Việc sử dụng kiểu câu này có tác dụng gợi lên ở người đọc những tưởng tượng cụ thể, sinh động về làng quê của Nguyễn Bính, giúp người đọc hiểu hơn “chân quê” trong thơ ông. Câu dài(câu2) cho ta cảm giác nỗi buồn thê thiết về cái làng quê nghèo. Câu 6 cũng là câu dài liệt kê liên tiếp những tưởng tượng, những ước mơ của Nguyễn Bính. Dường như cảm xúc thơ đang trào về, tình yêu với quê hương đang cồn lên. Câu ngắn “Chỉ nghĩ lại đã se lòng” có tác dụng dồn nén thông tin, dồn nén cảm xúc xót xa, ngẩn ngơ, se sắt của người viết. Đây cũng là câu không chủ ngữ nên có giá trị khái quát, nỗi se lòng không phải của riêng ai mà của tất cả người đọc khi nghĩ về làng quê của Nguyễn Bính. Như vậy sự kết hợp giữa các kiểu câu: dài, ngắn, miêu tả, cảm thán trong đoạn văn bản này đã tạo cho nó sự hấp dẫn và giàu ý nghĩa. * Viết văn có hình ảnh. Bài văn nghị luận hay là bài văn giàu sức thuyết phục nhưng cũng giàu hình ảnh. Hình ảnh làm tăng sức thuyết phục, làm cho chân lí sáng tỏ, thấm thía. Biện pháp tốt nhất tạo nên bài viết có hình ảnh là người viết dùng phép so sánh, liên hệ, đối chiếu. Ở đây những tư tưởng, ý đồ của người viết được minh hoạ, diễn đạt bằng cách so sánh với hàng loạt hình ảnh cụ thể, sinh động tạo sự thích thú cho người đọc. 40 https://tailieu.top/

  41. Ví dụ: Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có phải bay bổng bao nhiêu cũng phải gắn chặt với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Nhìn vào một số tác phẩm văn học lớn ta thấy rõ mối quan hệ máu thịt này. Ở ví dụ này, hình ảnh được đưa ra so sánh vừa làm rõ, cụ thể mối quan hệ giữa văn học và đời sống, vừa làm một vấn đề lí luân văn học không còn khô khan, vừa tạo sự thích thú ở người đọc. Học sinh có thể tìm đọc, ghi lại những so sánh kiểu này để làm tư liệu, để học tập cách viết. Tất cả các kĩ năng trên học sinh đều phải được luyện đi, luyện lại. Ban đầu luyện viết ngắn, luyện từng kĩ năng, luyện từng đoạn, sau đó luyện viết dài, cuối cùng là cả bài văn hoàn chỉnh. Lúc đầu có thể luyện viết tại nhà, sau đó là viết trên lớp trong một thời gian quy định.Người dạy cũng hướng dẫn cho các em khi viết cùng một nội dung thì chọn nhiều cách dùng từ khác nhau, diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau và chọn cách diễn đạt hay nhất. Tất cả các bài luyện của học sinh, giáo viên đều phải chấm kĩ, có nhận xét rõ ràng về ưu điểm và hạn chế, buộc học sinh phải viết lại (nếu bài văn chưa được) sau khi giáo viên đã chữa. Khi đã nhuần nhuyễn các thao tác, học sinh tiếp tục được luyện theo từng dạng đề, đặc biệt dạng đề mà hay ra ở kì thi học sinh giỏi các cấp. 3.4.5. Rèn tốc độ viết. Viết nhanh cũng là một yêu cầu cần thiết đối với học sinh giỏi, làm thế nào để trong vòng 180 phút học sinh viết được khoảng 10 đến 12 trang, vì thế rèn tốc độ viết cũng là một kì công. Viết nhanh không có nghĩa là viết ẩu, viết nhanh nhưng chữ phải rõ ràng, câu phải chuẩn, nghĩa phải đúng. Việc rèn cho học sinh bắt đầu từ một câu trong thời gian nhất định, sau đó nâng dần về yêu cầu, tăng số câu, tăng yêu cầu về số trang trong khoảng thời gian 41 https://tailieu.top/

  42. bắt buộc của bài thi. Nếu lần một chưa đạt, thì luyện viết kiên trì để đạt được dunglượng yêu cầu thì thôi.Tập cho học sinh phải căn cứ vào số câu, số điểm mà định lượng thời gian và dung lượng, bắt mình phải trong khuôn khổ ấy, phải đạt được như thế này. Cứ như vậy,dần dần học sinh sẽ quen, sẽ không còn bị áp lực khi viết bài học sinh giỏi văn. 3.4.6. Luyện nhận xét văn người, sửa văn mình. Sau khi đã luyện thành thạo các kĩ năng cho mình, học sinh cũng cần luyện nhận xét văn người để sửa văn mình. Đây cũng là một cách học khá hiệu quả để văn của mình hay hơn, hấp dẫn hơn. Có thể luyện tập theo các bước sau: Phân tích bài văn nghị luận hay ở các mặt: hệ thống lập luận, tư liệu, trình bày diễn đạt. Từ đó rút ra những nét đặc sắc để học tập. Cũng trên những bài này, tìm ra những điểm chưa được (nếu có), nguyên nhân của nó và sửa chữa. Viết một bài văn theo đề của một bài văn mẫu, sau đó đối chiếu với bài văn mẫu để thấy cùng một ý nhưng người ta dùng những từ này, chọn cách diễn đạt này hay hơn mình, cách phát triển ý như thế này, cách lập luận thế này…Từ đó để sửa văn mình. Có thể cho học sinh tự chấm bài văn của nhau, học cách viết của bạn ở những đoạn văn hay. Đó cũng là một cách khích lệ học sinh giỏi vì các em rất tự hào khi có được bài văn, đoạn văn hay được giáo viên và bạn mình trân trọng. 4. Việc chấm chữa bài cho học sinh. Song song với việc giảng dạy, rèn kĩ năng cho học sinh, yêu cầu học sinh làm nhiều bài tập, thì đồng thời giáo viên cũng phải chăm chỉ chấm chữa bài cho học sinh. Kinh nghiệm cho thấy học sinh nào càng chịu khó làm bài tập, chịu khó làm bài chữa sau khi giáo viên đã chữa và trả bài, thì sự tiến bộ của học sinh đó rất nhanh và vững chắc. Sự thành công của các em một phần quyết định từ việc chấm chữa bài của giáo viên. Vì vậy việc chấm bài không thể theo cảm hứng, cảm tính 42 https://tailieu.top/

  43. mà đòi hỏi phải ngiêm túc, công bằng, khách quan, có tính động viên. Theo chúng tôi người chấm văn phải đảm bảo một số yêu cầu sau đây: Thứ nhất, xác định các khâu chấm bài ít nhất có 4 khâu: thẩm định, sửa chữa, phê duyệt và cho điểm. Khâu thẩm định phải căn cứ vào mục đích, yêu cầu của mỗi đề bài. Nên định ra một chuẩn mực về nội dung và hình thức.Nói chung hai chuẩn mực tổng quát là đủ ý và chỉnh lời. Trong khâu sửa chữa, phê duyệt, giáo viên phải có quan điểm chấm rõ ràng. Khi chấm nên nhìn nhận và cho rằng bài làm của học sinh là một sản phẩm lao động, một sản phẩm sáng tạo cực nhọc của các em. Tiếp xúc với bài làm của học sinh là tiếp xúc với một tiếng nói, một con người, đằng sau dòng chữ các em đang hồi hộp chờ mong từng ngày, từng giờ cái giây phút thầy giáo công bố kết quả lao động của mình. Vì vậy giáo viên phải có được thái độ ứng xử đẹp đẽ, đúng đắn trước mọi điều hay dở trong bài làm của học sinh. Nên trân trọng từng tìm tòi, cảm thông từng sai sót, vừa nghiêm khắc, vừa độ lượng trước từng khuyết điểm của học sinh. Muốn vậy, người chấm phải đọc kĩ, lắng nghe tìm hiểu từng chữ, từng lời của học sinh trên bài làm. Nắm bắt mạch văn và cách tư duy của các em, không nên lấy cách nghĩ của mình để gạt bỏ phê phán học sinh, những ý nghĩ độc đáo cần được biểu dương, khuyến khích. Lời phê của giáo viên cần tránh sự giễu cợt làm các em tự ti, xấu hổ.Thái độ sửa lỗi của thầy cho học sinh dân tộc phải rất mềm dẻo, nghiêm khắc mà nhã nhặn. Nên cho rằng trong bất cứ bài làm nào của học sinh cũng có những ưu điểm đáng kể. Chê khuyết điểm thì dễ, nhưng phát hiện và nâng đỡ các ưu điểm, cố gắng dù rất nhỏ bé nhưng có triển vọng, phát sinh từ trí tuệ học sinh mới là khó. Nếu cần phê thì khen trước, phê sau, nên nói theo kiểu: Rất đáng tiếc, giá mà viết thế này, thế kia thì tốt hơn…Cần tránh lời nhận xết chung chung, lời nhận xét phải 43 https://tailieu.top/

  44. nói được sự tiến bộ hay chưa để học sinh còn phấn đấu thêm. Các lỗi được chỉ ra phải yêu cầu học sinh viết lại, giáo viên tiếp tục theo dõi, sửa chữa. Khi chấm bài không chỉ phải đọc kĩ mà tránh chấm theo ấn tượng và định kiến với mỗi học sinh. Chấm mỗi bài chưa nên cho điểm ngay mà dùng kí hiệu, chờ khi chấm xong, có sự tương quan, có đánh giá chung, mới quyết định điểm số. Khi chấm bài của học sinh không nên chấm quá thấp với những bài tạm thời chưa được tốt. Nếu không các em dễ xấu hổ với bạn bè, thiếu tự tin vào năng lực của mình, khơi lên ý thức tự ti trong bản chất người dân tộc của các em, điều đó rất bất lợi cho hiệu quả ôn luyện. Thứ hai, giáo viên phải có yêu cầu cao và kiên quyết với học sinh ôn đội tuyển văn về việc trình bày diễn đạt, việc khắc phục lỗi chính tả, dùng từ… Phải cho các em hiểu được: đã là một bài thi học sinh giỏi thì không thể bị sai lỗi chính tả và trình bày cẩu thả được. Việc chữa lỗi chính tả cho học sinh dân tộc phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, cần mẫn giống như là thích thú của giáo viên. Bởi vì kĩ năng này là em rất yếu, hổng rất nhiều từ các lớp dưới. Thứ ba, giáo viên phải đề cao việc trình bày đẹp của một bài văn, coi đó là một biểu hiện cái nhìn của thẩm mĩ của một người học văn giỏi. bởi vì văn nghĩa gốc là đẹp. Giáo viên có thể lấy các tác phẩm Tờ hoa, Trang hoa, Chữ người tử tùcủa Nguyễn Tuân để vừa giảng vừa giáo dục các em điều này. Hơn nữa hình thức trình bày là một mục có điểm trong các đáp án chấm thi học sinh giỏi các cấp. Do vậy giáo viên dạy đội tuyển phải tận dụng điều này. Nếu những học sinh viết chữ khó đọc thì phải yêu cầu các em đó luyện chữ viết thật nhiều bằng cách chép thơ, văn vào sổ tay, để dần dần chữ viết không đẹp thì phải rõ ràng, dễ đọc. Kết quả là càng về sau, chữ viết của các em sẽ càng đẹp hơn. Nói như thế không có nghĩa là giải đạt là vì chữ đẹp hay xấu. Nhưng rõ ràng là chữ viết góp phần để bài văn, ý văn đẹp hơn, rõ hơn. 44 https://tailieu.top/

  45. 5. Tư tưởng thái độ của người thầy khi ôn luyện. Người thầy dạy đội tuyển Văn trước hết phải giỏi về chuyên môn. Muốn vậy, người thầy phải chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn của mình một cách thường xuyên. Phải liên tục bổ sung tủ sách cá nhân những tài liệu mới phục vụ cho việc ôn luyện. Phải không ngừng tiếp cận nắm bắt thông tin mới về việc thi học sinh giỏi của ngành để có định hướng ôn tập đúng đắn. Ngoài yếu tố kiến thức, người giáo viên ôn luyện cho học sinh dân tộc phải có sự kiên trì, say mê, nhiệt tình. Bởi học sinh dân tộc có nhiều yếu tố hạn chế, phải dành nhiều thời gian cho việc chữa lỗi, rèn kĩ năng, phải hầu như cung cấp mới hoàn toàn kiến thức, phải chủ động hoàn toàn việc cung cấp tài liệu…Ngoài ra giáo viên phải vừa dạy, vừa dỗ vì các em hay tự ti, dễ chán nản, ít muốn vươn lên. Với tất cả những điều đó, nếu không có cái Tâm đủ lớn thì giáo viên không làm được công tác đội tuyển. Phải đối xử công bằng với học sinh khi ôn luyện.Tránh sự thiên vị, vì điều đó dễ làm cho học sinh dân tộc mặc cảm, chạnh lòng, nhất là đối với những học sinh còn yếu hơn các bạn khác. Người thầy dạy phải là người thực hiện nghiêm túc công việc, phải nghiêm chỉnh, gương mẫu thực hiện giờ giấc lên lớp, phải giữ chữ tín trong lời hứa. Điều này tạo nền tảng về tính kỉ luật cao với học sinh, khiến các em có ý thức tốt trong học tập. * Trên đây là những kinhnghiệm ôn luyên học sinh giỏi Văn ở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh. Đúc rút kinh nghiệm từ thực tế, chúng tôi mạnh dạn trình bày ở đây, hi vọng sẽ đem lại ít nhiều điều bổ ích cho các đồng nghiệp trong trường và trường bạn tham khảo, góp ý. 45 https://tailieu.top/

  46. CHƯƠNG 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 1. Giới thiệu một số chuyên đề trong quá trình dạy đội tuyển học sinh giỏi Văn tại trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hòa Bình CHUYÊN ĐỀ 1: TÁC GIA XUÂN DIỆU PHẦN I: TÁC GIA XUÂN DIỆU A. Vài nét về tiểu sử, con người I/ Tiểu sử: Xuân Diệu là bút danh. Họ tên nhà thơ là Ngô Xuân Diệu. Ông sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916. Quê nội ở xã Trảo Nha (nay là xã Đại Lộc) huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Quê ngoại xã Gò Bồi, Tùng Giản, Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Xuân Diệu lớn lên ở Quy Nhơn. Ở đây ông học hết bậc thành chung ( phổ thông cơ sở) sau đó ra Hà Nội, rồi vào Huế học tiếp. Năm 1940 sau khi đỗ tú tài Xuân Diệu làm viên chức ở Nha Thương chính tỉnh Mỹ Tho. Năm 1943 ông xin thôi việc và ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Năm 1944 Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh. Sau cách mạng tháng Tám ông hoạt động tích cực trong hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký toàn soạn tạp chí Tiền Phong của hội. Trong kháng chiến chống Pháp Xuân Diệu công tác ở đài tiếng nói Việt Nam ở hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí “Văn nghệ”. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ và nhiều năm sau khi đất nước thống nhất ông là ủy viên Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam. Ông được Viện Hàn Lâm nghệ thuật nước cộng hòa dân chủ Đức bầu làm viện sĩ thông tấn (1983). 46 https://tailieu.top/

  47. Xuân Diệu mất ngày 18 tháng 12 năm 1985 tại Hà Nội. Ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh (Đợt 1 năm 1996) do những đóng góp quan trọng về văn học nghệ thuật đối với dân tộc. II/ Con người - Xuân Diệu là con của một ông đồ xứ Nghệ nên ông đã học được ở cha đức tính cần cù kiên nhẫn trong học tập, rèn luyện tài năng và lao động sáng tạo nghệ thuật. - Sinh ra và lớn lên ở Quy Nhơn (quê mẹ) nơi có thiên nhiên vùng biển thơ mộng trữ tình đã bồi đắp cho hồn thơ ông thêm nồng nàn sôi nổi. - Xuân Diệu sinh ra, lớn lên học tập chủ yếu ở môi trường thành thị nên ông đã sớm hấp thu ảnh hưởng của môi trường, của tư tưởng văn hóa Pháp một cách có hệ thống trên ghế nhà trường. Mặt khác do xuất thân từ một gia đình nhà nho nên ông tiếp thu được ảnh hưởng của nền văn hóa truyền thống. Điều này đã tạo nên trong tư tưởng nhà thơ có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại, đông và tây, nhưng tư tưởng Tây học có ảnh hưởng sâu đậm hơn. - Xuân Diệu là một tài năng nhiều mặt: làm thơ, viết văn, nghiên cứu phê bình văn học, dịch thuật. Thơ ca là lĩnh vực thành công nhất của ông. Xuân Diệu được coi là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. B. Sự nghiệp văn học Hoạt động văn nghệ của Xuân Diệu thật phong phú đa dạng. - Thành tự xuất sắc nhất của ông là thơ ( 15 tập thơ đã được in) khẳng định ông là một nhà thơ lớn. - Về văn xuôi: Trường ca ( Thơ –văn xuôi, 1945), “ Phấn thông vàng” ( truyện ngắn – 1939) - Nghiên cứu phê bình văn học: “Ba thi hào dân tộc” (1959), “Thi hào dân tộc Nguyễn Du” (1966), “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam” (1971 - 1982) 47 https://tailieu.top/

  48. I/ Thơ Xuân Diệu Sự nghiệp thơ ca của Xuân Diệu chialàm 2 giai đoạn: trước và sau Cách mạng tháng Tám. 1. Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám: trước Cách mạng tháng Tám Xuân Diệu được coi là nhà thơ “Mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Giai đoạn này ông có các tác phẩm thơ “Thơ Thơ” (1938) “Gửi hương cho gió” (1945). Cả hai tập thơ đánh dấu giai đoạn sáng tạo sung mãn nhất của Xuân Diệu, đồng thời cũng ghi dấu những đóng góp quan trọng và đầy ý nghĩa của nhà thơ vào đời sống nghệ thuật bởi một quan niệm nhân sinh, thẩm mĩ mới mẻ, được bộc lộ bằng một nguồn cảm xúc mới, một cách diễn đạt thi ca mới, tác động tích cực vào ý thức cách tân trong thơ ca đương thời. Nội dung * Thơ Xuân Diệu thể hiện cái tôi yêu dời, yêu tha thiết cuộc sống. Hoài Thanh nhận xét “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”. Thơ Xuân Diệu thơ của một con người có niềm khao khát mãnh liệt được giao cảm với cuộc đời, với con người. “ Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều …” (Vội vàng) Yêu đời, yêu cuộc sống Xuân Diệu muốn níu kéo, gìn giữ tất cả những gì tươi đẹp để tận hưởng và sống hết mình với nó. “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại 48 https://tailieu.top/

  49. Theo hương đừng bay đi” (Vội vàng) Cái tôi Xuân Diệu thiết tha yêu cuộc sống, ý thức về phần đời đẹp nhất của con người là tuổi thanh xuân sẽ một đi không trở lại nên lớn tiếng kêu gọi tuổi trẻ hãy sống cao độ, có ý nghĩa mỗi giây phút của cuộc sống. “Mau lên chứ vội vàng lên với chứ Em em ơi tình non sắp già rồi” (Giục giã) “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm” (Vội vàng) Nhà thơ say sưa hưởng thụ cuộc sống bằng mọi giác quan tinh nhạy “Muôn nỗi ấm với muôn ngàn nỗi mát Ta đều ăn nhấm nhía rất ngon lành” (Thanh niên) “Ta bấu răng vào da thịt cuộc đời” (Thanh niên) “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” (Vội vàng) Để thỏa mãn niềm khát sống mãnh liệt ấy Xuân Diệu đã tìm đến với tình yêu. Với Xuân Diệu tình yêu đôi lứa là thứ tình cảm thiêng liêng nhất, đam mê mãnh liệt nhất. Và nó cũng là lý do khiến cho con người tồn tại trên thế gian này: “Làm sao sống được mà không yêu Không nhớ không thương một kẻ nào” (Bài thơ tuổi nhỏ) Tình yêu trong thơ Xuân Diệu được diễn tả với mọi sắc thái, mọi cung bậc” Lúc e ấp, dịu hiền “Anh gọi nhỏ kề tai em em hỡi 49 https://tailieu.top/

  50. Trên tay anh, em bèn viết “anh ơi!” Rồi ngó mê nhau ta mím mắt cười” (Kỷ niệm) Lúc nồng nàn, say đắm, si mê đến cuồng nhiệt “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!...” (Tương tư chiều) “Nên lúc môi ta kề miệng thắm Trời ơi! Ta muốn uống hồn em” (Vô biên) “Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần” (Phải nói) Xuân Diệu đã giúp người đọc khám phá những giá trị quý báu mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Thế giới của chúng ta thật đáng yêu đáng sống “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si” (Vội vàng) * Thơ Xuân Diệu thể hiện tâm trạng bi quan chán nản, hoài nghi của nhà thơ trước cuộc đời Là một nhà thơ, nhà nghệ sĩ vô cùng nhạy cảm với cuộc đời, luôn khao khát được sống cuộc đời sôi nổi với ý nghĩa, nhưng nhà thơ phải sống với hiện thực của một người dân mất nước, cuộc sống của con người bị hạn chế tù túng nên khi 50 https://tailieu.top/

More Related