1 / 25

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975. I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI, VĂN HÓA VIỆT NAM SAU 1975. Kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và sự trở lại của cuộc sống đời thường, những khát vọng hạnh phúc, tự do muôn thuở của con người cá nhân. Cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế - văn hóa:

Télécharger la présentation

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

  2. I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI, VĂN HÓA VIỆT NAM SAU 1975 • Kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và sự trở lại của cuộc sống đời thường, những khát vọng hạnh phúc, tự do muôn thuở của con người cá nhân. • Cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế - văn hóa: • Sự chấm dứt của nền văn hóa bao cấp và sự trở lại của đời sống văn học dân chủ, mang tính cạnh tranh. • Sự du nhập ồ ạt của những luồng tư tưởng, văn hóa hiện đại trên thế giới. • Sự hình thành của một công chúng đọc đa dạng, với thị hiếu thẩm mỹ phức tạp.

  3. II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975 1. 1975 – 1985: Giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học thời hậu chiến. • Sau ngày đất nước thống nhất, lịch sử VN chuyển qua một thời đại mới, nhưng văn học nghệ thuật vẫn vận động theo quán tính của văn học thời chiến, với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. • Diễn ra sự vận động ngầm của đời sống văn học, với những trăn trở vật vã, tìm tòi thầm lặng ở một số nhà văn mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống và có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình. Đó là những người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. • Tác phẩm tiêu biểu: kịch Rừng trúc (1978) và Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979) của Nguyễn Đình Thi, tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985) của Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm (1981) của Nguyễn Khải, kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984), Tôi và chúng ta (1985) của Lưu Quang Vũ, tập thơ Ánh trăng (1984) của Nguyễn Duy, tập thơ Tự hát (1984) của Xuân Quỳnh, tập thơ Hoa trên đá (1984) của Chế Lan Viên, tập thơ Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi…

  4. Ánh trăng(Nguyễn Duy) Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với biển hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỷ Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường  Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình 1978 

  5. Tự hát(Xuân Quỳnh) Chả dại gì em ước nó bằng vàng Trái tim em, anh đã từng biết đấy Anh là người coi thường của cải Nên nếu cần anh bán nó đi ngay Em cũng không mong nó giống mặt trời Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống Lại mình anh với đêm dài câm lặng Mà lòng anh xa cách với lòng em Em trở về đúng nghĩa trái tim Biết làm sống những hồng cầu đã chết Biết lấy lại những gì đã mất Biết rút gần khoảng cách của yêu tin Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em Biết khao khát những điều anh mơ ước Biết xúc động qua nhiều nhận thức Biết yêu anh và biết được anh yêu  Mùa thu nay sao bão giông nhiều Những cửa sổ con tàu chẳng đóng Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh Em lo âu trước xa tắp đường mình Trái tim đập những điều không thể nói Trái tim đập cồn cào cơn đói Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em Là máu thịt, đời thường ai chẳng có Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi. 1984

  6. II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975 2. 1986 – 1991:Đổi mới toàn diện và sôi nổi trên tất cả mọi lĩnh vực của văn học nghệ thuật. • Từ năm 86 trở đi, những cuộc tranh luận về văn học diễn ra sôi nổi nhờ bầu không khí tương đối dân chủ, lành mạnh, tạo nên sự khởi sắc và đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt trong sáng tác văn học cũng như mọi lĩnh vực nghệ thuật khác. • Một loạt phóng sự về những thực trạng nhức nhối trong xã hội, đặc biệt là tình hình ở nông thôn: Lời khai của bị can (1987) của Trần Huy Quang, Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa (1988)của Võ Văn Trực, Cái đêm hôm ấy đêm gì... (1987) của Phùng Gia Lộc… • Truyện ngắn và tiểu thuyết nở rộ, tập trung phản ánh những xung đột, khủng hoảng dữ dội của xã hội và tâm hồn con người: tiểu thuyết Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu, tập truyện ngắn Tướng về hưu (1988) của Nguyễn Huy Thiệp, tiểu thuyết Bến không chồng (1990) của Dương Hướng, tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990) của Nguyễn Khắc Trường, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (1990) của Bảo Ninh…

  7. II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975 3. Từ 1992 đến nay: Quá trình đổi mới chậm và trầm lắng lại, đi vào chiều sâu. • Cao trào đổi mới của văn học Việt Nam dần chậm lại, chuyển sang những tìm tòi về hình thức nghệ thuật. • Vẫn xuất hiện những tác phẩm đáng chú ý như tập truyện ngắn Khi người ta trẻ (1993) của Phan Thị Vàng Anh, tiểu thuyết Hồ Quý Ly (2001) của Nguyễn Xuân Khánh, tiểu thuyết Cơ hội của Chúa (1999) của Nguyễn Việt Hà, truyện ngắn Cánh đồng bất tận (2003) của Nguyễn Ngọc Tư, tập truyện Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (2000) của Nguyễn Ngọc Thuần, tiểu thuyết Mười lẻ một đêm (2006) của Hồ Anh Thái, hồi ký Thượng đế thì cười (2003) của Nguyễn Khải… • Cuộc “nổi loạn” trong văn học của một số cây bút rất trẻ như Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh... khuấy động đời sống văn học.

  8. Người dệt tầm gai(Vi Thùy Linh) Chúng mình ở hai miền Ngày nào em cũng khóc.... Anh yêu của em Em yêu anh cuồng điên Yêu đến tan cả em ra Ào tung ký ức Ngày dài hơn mùa Em mong mỏi Em (có lúc) như một tội đồ nông nổi ... Em là người dệt tầm gai... Em nhẫn nại chắt chiu từng niềm vui Nhưng lại gặp rất nhiều nỗi khổ Truân chuyên đè lên thanh thản Ôi sự trái ngược - những sợi tầm gai ! Không kỳ vọng những điều lớn lao Em lặng lẽ dệt hạnh phúc từ những nỗi buồn - những sợi tầm gai - không ai nhìn thấy  Gai tầm gai đâm em đau đớn Em chờ anh mãi... Tưởng chừng không thể vượt qua nổi cái lạnh, em đã khóc trên hai bàn tay trầy xước  Những giọt tâm hồn thấm xót mười ngón tay rớm máu Ngay cả khi anh làm em buồn thảng thốt Em vẫn hướng về anh bằng tình yêu trọn vẹn của mình Dệt tầm gai đến bao giờ? Mỗi ngày dài hơn một mùa Dệt tầm gai đến bao giờ? Về đi anh! Cài then những ngón tay trầy xước của em bằng Anh!

  9. III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975 1. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa • Về quan niệm nghệ thuật: Văn học là phương tiện biểu hiện tư tưởng, quan niệm, chính kiến riêng của nghệ sĩ,không còn tuyên truyền cho một tư tưởng có sẵn mà còn ý thức về chân lý của các quan niệm khác. • Về đề tài: Văn học không chỉ tập trung vào hiện thực cách mạng, các biến cố lịch sử, mà còn tập trung vào hiện thực của đời sống hằng ngày với các quan hệ thế sự phức tạp, hiện thực của đời sống cá nhân với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, khát vọng… • Về bút pháp: Văn học mạnh dạn từ bỏ lối viết hoa mỹ, tô hồng một thời để đáp ứng nhu cầu hiện đại của công chúng, chấp nhận ngôn ngữ đời thường, thông tục, táo bạo.

  10. Tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vui Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất Nhưng nghĩ đến Người lòng tôi rách nát Xin Người đừng trách giận, Việt Nam ơi Tôi làm sao sống được nếu xa Người Như giọt nước bậu vào bụi cỏ Như châu chấu ôm ghì bông lúa Người đẩy ra tôi lại bám lấy Người Không vì thế mà Người khinh tôi chứ Việt Nam ơi Không vì tôi đau khổ rã rời Mà Người ghét bỏ? Xin Người đừng nhìn tôi như kẻ lạ Xin Người đừng ghẻ lạnh, Việt Nam ơi Người có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một Người Tất cả sẽ ra sao Mảnh đất nghèo máu ứa? Người sẽ đi đến đâu Hả Việt Nam khốn khổ? Đến bao giờ bông lúa Là tình yêu của Người? Đến bao giờ ngày vui Như chim về bên cửa? Đến bao giờ Người mới được nghỉ ngơi Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ? Đến bao giờ đến bao giờ nữa Việt Nam ơi? VIỆT NAM ƠI Lưu Quang Vũ Những áo quần rách rưới Những hàng cây đắm mình vào bóng tối Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu Lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ Lèo tèo mì luộc canh rau Mấy mươi năm vẫn mái tranh này Dòng sông đen nước cạn Tiếng loa đầu dốc lạnh Tin chiến trận miền xa Những người đi chưa về Những quả bom hầm hào sụt lở Những tên tướng những lời hăm dọa Người ta định làm gì Người nữa Việt Nam ơi? Mấy mươi năm đã mấy lớp người Chia lìa gục ngã Đã tận cùng nỗi khổ Người ta còn muốn gì Người nữa Việt Nam ơi? Người đau thương, tôi gắng gượng mỉm cười Gắng tin tưởng nhưng lòng tôi có hạn Chiều nay lạnh, tôi nghẹn ngào muốn khóc Xin Người tha thứ, Việt Nam ơi

  11. Người đàn bà ngồi đan(Ý Nhi) Giữa chiều lạnh  Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ  Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã  Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời  Vội vã như thể đó là lần sau chót Không thở dài  không mỉm cười  Chị đang giữ kín đau thương  Hay là hạnh phúc  Lòng chị đang tràn đầy niềm tin  Hay là ngờ vực  Không một lần nào chị ngẩng nhìn lên  Chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt  Hay sau buổi chia ly  Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu  Trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng  Giữa chiều lạnh  Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ  Dưới chân chị  Cuộn len như quả cầu xanh  Đang lăn những vòng chậm rãi (1-1984) 

  12. Thị Mầu(Anh Ngọc) Người đi qua nghiêng ngả những trận cườiChấp tất cả lời ong ve mai mỉaNgười chịu hết mọi thói đời độc địaChiếc quạt màu khép mở vẫn ung dungTrên môi người câu hát cứ trẻ trungTừng sợi tóc cũng rung theo nhịp pháchMùi táo chín, mùi hương, mùi da thịtNgười đi qua sân khấu tới đời thườngNgười sống trong hơi thở của nhân dânMấy trăm năm ai để thương để giậnCâu sa lệch cũng hò reo nổi loạnNhịp trống gầm lên những khát vọng không lờiNhững khát vọng nằm sâu trong mỗi trái tim ngườiĐược sống đúng với lòng mình thực chấtNhững xiềng xích phết màu sơn đạo đứcMấy trăm năm không khóa nổi Thị MàuNhững cánh màn đã khép lại đằng sauTáo vẫn rụng sân đình không ai nhặtBao Thị Màu đã trở về đời thựcVị táo còn chua mãi ở đầu môi .  Người mấy trăm năm làm rung chuyển những sân đìnhLàm điên đảo những phông màn khép mởNgười táo bạoNgười không hề biết sợNgười chưa từng lùi bước trước tình yêuNgười phá tung khuôn khổ những điệu chèoĐể cuộc sống ùa lên đầu cửa miệngNgười trung thực đến không cần giấu giếmCặp môi hồng con mắt ướt đong đưaNgười cả gan sàm sỡ cả cửa chùaChọn sắc áo cà sa mà chọc ghẹoThừa sinh lực nên người luôn túng thiếuNên hương trầm tiếng mõ khéo trêu ngươi

  13. III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975 2. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên tinh thần nhân bản, dẫn đến sự nổi trội của khuynh hướng thế sự - đời tư • Sự phê phán, hoài nghi và mỉa mai đối với những giá trị cũ, sự sụp đổ của các thần tượng cũ. • Nỗi buồn, sự ưu tư gắn với một thực tại rối ren phức tạp, với những bi kịch nhân sinh trong hiện thực đời sống. • Xuất hiện quan niệm mới về con người như một thực thể phức tạp, đa chiều, đa diện; khuynh hướng tự vấn ngày càng nổi trội.

  14. ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ Hữu Thỉnh … Chị đợi chờ quay mặt vào đêm Hai mươi năm mong trời chóng tối Hai mươi năm cơm phần để nguội Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi Chị tôi không trẻ nữa, xóm làng thương ý tứ vẫn kêu cô Xóm làng thương không khoe con trước mặt Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc Vẫn được tiếng là người đứng vậy Nhưng anh tôi vẫn còn Anh tôi che cho ngọn đèn khỏi tắt Hai mươi năm áo gấm đi đêm Chị màu mỡ mà anh tôi chẳng biết Nhưng chị tôi không thể làm như con rắn que cời Lột cái xác già nua dưới gốc cây cậm quẫy Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cui một mình Những đêm trở trời trái gió Tay nọ ấp tay kia Súng thon thót ngoài đồn dân vệ Một mình một mâm cơm Ngồi bên nào cũng lệch Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế Và chị buồn như bông điệp xé đôi Rằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại Anh đã nghe và cây cỏ cũng nghe Cây thương anh làm vành lá ngụy trang Dù vẫn biết không mát bằng bóng chị Dù vẫn biết không ấm bằng tóc chị Cỏ mùa khô một buổi vẫn tưng bừng Chị thổi ù dằng dặc suốt đời anh Chiếc khăn tay muốn làm buồm náo nức Chiếc khăn tay của một thời nước mắt Sẽ tung cờ hạnh phúc trước hàng hiên Nhưng đêm nay chị vẫn còn buồn Nhẫn vẫn lỏng ngón tay khô héo …

  15. GIỮA HAI CHIỀU QUÊN NHỚ                                       Bùi Sim SimChưa đủ nhớ để gọi là yêuChưa đủ quên mà thành xa lạAnh ám ảnh em hai chiều nghiệt ngãNghiêng bên này lại chống chếnh bên kia.Ngôi sao nào thổn thức giữa trời khuyaDịu dàng quá lời thì thầm của gió!Ngủ ngoan thôi, ngọn cỏ mềm bé nhỏBiết đâu chừng thiên sứ đến vây quanh...Trái tim đa mang chở tình yêu chòng chànhYêu với nhớ lắc lư nhịp sóng.Anh là gì giữa bốn bề vang vọngEm giật mình khi thốt gọi thành tên.

  16. BÙA LÁ                        Nguyễn Thị Đạo Tĩnh I. Lá vàng tôi thả bùa mê Cho ai nhặt về làm chút duyên chơi      Lỡ làng mười tám đôi mươi Tôi đi chợ muộn kiếm cơi trầu già Tơ vương tóc rối chân gà Ai mua tôi bán- để mà cầu duyên… II.      Đợi người như đợi trăng lên Người như chàng Cuội- người quên lối về.     Đêm dài- đêm thả bùa mê Cho con đom đóm bờ đê lạc đường! III.      Buồn tình ngồi ngắm trăng suông Chẳng ai thương đến thì thương lấy mình.      Lá rơi lạc xuống sân đình Bùa yêu tôi thả cho mình tôi… yêu!

  17. CHỒNG CHỊ CHỒNG EM Đoàn Thị Lam Luyến Xưa thì chị. Nay thì em Phải duyên chồng vợ, nối thêm cho dài… Ngỡ ngàng nặng cả đôi vai Những cao như núi, những dài như sông Được lúa, lúa đã gặt bông Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa Mặn mà cũng khác ngày xưa Bâng khuâng… như chửa bao giờ bén duyên Gần được ấm, xa được êm Dẫm vào ruộng hóa, vụt nên mùa màng Cái giần vục phải cái sàng Xui cho hai đứa nhỡ nhàng gặp nhau . Lá bùa từ thuở Mỵ Châu Lá bài Trọng Thuỷ còn đau đến giờ! Tình yêu một mất, nghìn ngờ Khiến cho biển cứ khuất bờ trong nhau. Cái phận trước, cái duyên sau Nào ai tính được dài lâu với trời ? Khi vui, muốn có một người Khi buồn muốn cả đất trời sẻ chung. Đã từ hai mảnh tay không Kể chi mẹ ghẻ, con chung, chồng người? Dở dang suốt nửa cuộc đời Bỗng dưng mọc một mặt trời trong nhau! Chị thản nhiên mối tình đầu Thản nhiên em nhặt bã trầu về têm.

  18. III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975 3. Văn học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại nhưng không kém phần phức tạp • Nới lỏng và phá vỡ các thể thơ truyền thống, tăng cường tính chất “điệu nói” và vắt dòng. Bùng nổ mạnh mẽ các hình thức thơ tự do, cả về khuôn khổ lẫn số lượng. • Sự phục hồi và phát triển của các thể loại văn xuôi trước 45 (tiểu thuyết tâm lý, phóng sự…) cùng với sự hình thành của một số thể loại mới (truyện cực ngắn). • Sự đa dạng và phong phú được thể hiện trên nhiều bình diện: đề tài, thể loại, thủ pháp, phong cách, khuynh hướng thẩm mỹ… • Thái độ của công chúng đối với văn học cũng thay đổi rất nhanh: từ phản bác, có khi quyết liệt, gay gắt đến dần dần chấp nhận và cuối cùng là có cả sự cổ vũ tuy còn dè dặt, thăm dò.

  19. Chờ em đường dương cầm khuya ôi cái im đêm thơm mộng Chờ em đường dương cầm trăng ứa nhụy, lạnh dương cầm xuân Chờ em đường dương cầm mưa giọt giọt lá buồn dạ khúc ... Xào xạc lòng tay khuya Anh về lối dương cầm lạnh DƯƠNG CẦM LẠNH Dương Tường Chờ em đường dương cầm xanh dậy thì nõn dương cầm phố Chờ em đường dương cầm sương chúm chím nụ dương cầm biếc Chờ em đường dương cầm sim vằng vặc nụ dương cầm trinh

  20. VỢ ỐM Nguyễn Duy Kính tặng vợ nhân đầu xuân con Tuất – 1994 Vừa một xuân, lại một xuân Vợ ơi đại hạn đã gần một năm Một nhà là sáu miệng ăn Một thi nhân hoá phăm phăm ngựa thồ Cái lưng em, sụn bất ngờ Tứ chi anh lõng thõng quơ rụng rời Thông thường thượng giới rong chơi Trần gian choang choác sự đời tuỳ em Nghìn tay nghìn việc không tên Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng Thình lình em ngã bệnh ngang Phang anh xất bất xang bang sao đành Cha con Chúa Chổm loanh quanh Anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia Việc thiên, việc địa, việc nhà Một mình anh vãi cả ba linh hồn (!)

  21. NGƯỜI ĐẸP Lò Ngân Sủn Người đẹp trông như tuyết Chạm vào lại thấy nóng Người đẹp trông như lửa Sờ vào lại thấy mát Người không khát - nhìn thấy người đẹp cũng khát Người không đói - nhìn thấy người đẹp cũng đói Người muốn chết - gặp người đẹp lại không muốn chết nữa Ơ! Người đẹp là ước mơ Treo trước mắt mọi người!

More Related